CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA ĐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ QUA CÁC THỜI ĐẠI 1
Tạ Văn Tịnh OP.
Tự bản chất, Kitô giáo không phải là một hệ thống triết thuyết nhằm dung hợp sự khôn ngoan thông thái của nhân loại, nhưng là một mạc khải của Đấng Tối Cao. Đường nét tinh thần căn bản của Kitô giáo không hệ tại vào tính vững chắc của những định chế hay tín điều tôn giáo, mà là thái độ rộng mở trong tương quan yêu thương, thân thiện và vị tha. Tuy thế, bên cạnh những nét đặc thù, Kitô giáo luôn sẵn sàng đối thoại, giao lưu và gặp gỡ với các tôn giáo, các nền văn hóa, văn minh của nhân loại.
Lịch sử cho ta thấy văn hóa Kitô giáo phương Tây đã được hình thành từ những đối chất, những tiếp thu, những ứng dụng của Kitô giáo đối với triết học Hy lạp, La mã Cổ đại. Từ vị thế một đối thủ, triết học Hy – La đã dần dần trở nên một người bạn thân thiện của niềm tin Kitô giáo. Tuy rằng, tiến trình này phải trải qua một thời gian dài và rất cam go, nhưng khi được tư tưởng Kitô giáo tiếp nhận, ứng dụng, thì nền văn hóa Hy lạp, La mã trở nên sinh động và hữu hiệu hơn bao giờ hết; đồng thời, các tư tưởng triết học Hy – La trở thành một điểm tựa của niềm tin Kitô giáo, đặc biệt là qua những công trình xán lạn của các Giáo phụ và các nhà Kinh viện trong việc cố gắng tìm kiếm những điểm tương đồng giữa triết lý và đức tin.
I. THỜI KỲ CÁC GIÁO PHỤ
1. Lý trí phục vụ đức tin
Thánh Justin – triết học biện minh cho đức tin
Thánh Justin đã sử dụng những điểm tích cực của triết học để biện minh cho đức tin. Ngài đặt vị trí quan trọng cho triết học một nhiệm vụ cao quý là bảo vệ chân lý. Lập trường của Justin là chấp nhận mọi chân lý cho dù nó đến từ đâu “Bất cứ những gì đã được nói ra do bất cứ ai đều thuộc về chúng ta cả”[1]. Tuy nhiên, đối với ngài, mọi suy tư triết học phải dẫn tới lòng kính sợ và tin tưởng vào Thiên Chúa, và đưa đến hạnh phúc chân thật cho con người.
Thánh nhân xem logos như trung gian giữa Thiên Chúa và thế giới. Logos được sinh ra trước khi tạo thành vũ trụ và là một nguồn chân lý. Logos chính là Ngôi Lời Thiên Chúa đã được ban cho nhân loại trước Đức Kitô, và là nguồn chân lý. Do đó, các triết gia ngoại giáo đã có được một thứ “tiềm lời” (Verbum seminale) phổ quát. Nếu họ trung thành với ánh sáng này họ đã là một Kitô hữu rồi. Tất cả những gì được nói ra đúng chân lý, đều là của chúng ta. Tuy nhiên, chỉ nhờ mạc khải của Thiên Chúa, ta mới có thể biết được trọn vẹn và chắc chắn về Ngôi Lời trọn hảo.
Thánh Clément – triết lý và đức tin không nghịch nhau
Sau thánh Justin, Clêmentê cũng có thái độ cởi mở với triết học. Ngài cho rằng, triết học, cho dù không thể thay thế cho đức tin nhưng nó chuẩn bị cho tâm hồn con người đón nhận đức tin. Thánh nhân trình bày đức tin Kitô giáo như một triết lý chân chính. Tri thức và đức tin thống nhất với nhau, nhưng trong sự thống nhất ấy ưu thế nghiêng về đức tin, không có đức tin không có tri thức, nhưng đức tin mà không cần tri thức chẳng khác nào một nền móng mà không có nhà xây trên đó. Con đường của triết học là con đường đi từ chân lý tản mạn đến những chân lý thống nhất, loại bỏ những hoài nghi và ngộ nhận mà đức tin là đích đến của nó. Triết học chân chính là sự nhận thức các bản thể thần linh và con người, là khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa Thiên Chúa – con người – vũ trụ.
2. Hạ thấp lý trí
Tertullien – Hạ thấp triết học để làm nổi bật đức tin
Khác với thánh Justin và Clément, Tertullien tỏ thái độ chống đối hoàn toàn với triết học. Ông coi các triết gia là ông tổ của những người lạc giáo. Đức tin không đón nhận được bằng lý trí. Ngài nói: một người tín hữu quê mùa dốt nát có thể trả lời những câu hỏi về Thiên Chúa cách rành mạch hơn một triết gia lỗi lạc xuất chúng.
Từ chỗ cực đoan về niềm tin, ông đã bỏ rơi hai chức năng của triết học là nghiên cứu và xây dựng. Trong nhận thức luận Tertullien theo đường lối duy cảm luận khắc kỷ, đề cao vai trò tự nhận thức, hay cảm tính bên trong. Trong vấn đề thần học ông khẳng định tính chất đáng tin cậy uy quyền của Giáo hội.
3. Dung hòa giữa đức tin và lý trí
Qua thế kỷ thứ V, Thánh Giáo phụ tiêu biểu là Augustin (354 – 430) với câu nói trứ danh: “hãy hiểu để tin, hãy tin để hiểu” (Intellige ut credas, crede ut intellgas). Trong công thức này, chúng ta thấy, giữa đức tin và lý trí có sự tác động biện chứng và gắn kết với nhau. Nhờ có lòng tin, con người nhận biết Thiên Chúa, nhờ có lý trí con người am tường được Đấng Anh Minh là nguyên nhân mọi sự. Vế thứ nhất “hãy hiểu để tin” có thể hiểu theo hai cách. Thứ nhất, đối với người chưa có lòng tin thì học biết về Thiên Chúa qua Kinh Thánh, tìm kiếm Người trong những quy luật của thực tại. Trong thực tế đã có nhiều người gặp được Chúa đang khi mải mê chinh phục thiên nhiên, khám phá vũ trụ. Trường hợp của tiến sĩ vật lý học Phan Như Ngọc là một ví dụ. Nhờ vào quan sát và nghiên cứu thực tại vũ trụ và tiếp cận với những tư tưởng vĩ đại như Newton, Victor Hugo, Einstein, ông đã thừa nhận rằng Thiên Chúa hằng hữu, dù trước đó ông là một đại biểu vô thần. Ngài tiến sĩ, người Mỹ, Francis S. Collins, Giám đốc dự án giải mã gen người, qua hơn một chục năm nghiên cứu nhằm tìm ra trình tự ADN đã viết tác phẩm nổi tiếng “Ngôn ngữ của Chúa”. Thứ hai, đối với người đã có lòng tin vào Thiên Chúa thì tìm hiểu thêm để kiểm chứng lòng tin của mình, nhận biết về Người cách sâu xa hơn và tin tưởng chắc chắn hơn.
Như vậy, lý trí và đức tin không tách biệt nhau và không làm cho con người mất khả năng nhận biết mình, nhận biết thế giới xung quanh, và quan trọng là nhận biết Đấng đã làm cho thế giới có trật tự là Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện và toàn mỹ.
Vế sau của lời bất hủ “hãy tin để hiểu” là lời vọng của mỗi người muốn tiến tới trong sự tìm kiếm chân lý. Mọi người đều khát vọng hiểu biết, nhưng đối tượng của khát vọng ấy chính là chân lý. Đức tin không phải là một ý niệm chết cứng hay chỉ nhận thức một lần cho tất cả, mà đòi hỏi lý trí luôn khám phá và kiếm tìm. Con người tìm kiếm chân lý, trong từng biến cố, không phải bằng cách khép mình lại trong một ốc đảo, mà bằng sự khoan dung, cởi mở, hòa hợp chính mình với những biến cố đó, để có thể đón nhận những giá trị trội vượt hơn mình, và từ đó, con người mới có lời đáp trả thỏa mãn và đầy tin tưởng. Triết học giúp con người nhất quán về tư duy và vững chắc về niềm tin chứ không phải chỉ là một thứ tri thức ngược chiều với niềm tin tôn giáo. Một lần nữa, sự hài hòa cơ bản của nhận thức triết lý với sự cảm thức của đức tin được củng cố. Đức tin đòi hỏi đối tượng của nó phải được lý trí hiểu biết, phân tích; còn lý trí khi nghiên cứu cho đến cùng, phải chấp nhận điều đức tin trình bày.
4. Những bài học từ thời kỳ các Giáo phụ
Đức tin cần đến sự liên minh với triết học. Với ý định tốt đẹp và cao thượng, các Giáo phụ chủ trương thống nhất mọi thứ tản mát (ám chỉ tính muôn màu muôn vẻ của triết học Hy lạp) về một chân lý duy nhất. Triết học Kitô giáo có kinh điển và Kinh Thánh của mình. Các Giáo phụ đã làm sống dạy truyền thống tư duy bằng ngôn ngữ triết học và phổ biến nó. Kinh Thánh là bộ sách quý giá nhất đối với các Giáo phụ cũng như với mọi tín hữu. Một bộ sách chứa đựng chân lý hoàn hảo về hồng phúc và sự thiện. Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa mạc khải cho con người, là chỗ dựa tinh thần của đời sống Kitô hữu, là nguồn sinh lực tiềm tàng của triết học và thần học. Nhưng để niềm tin Kitô giáo được vững chắc và được con người đón nhận, cần phải được luận giải, chứng minh bằng lý trí hầu làm cho niềm tin Kitô giáo minh bạch hơn.
Trong tinh thần ấy, Kitô giáo rất cần đến sự liên minh với triết học, lấy tư tưởng, ngôn ngữ triết học để lý giải, chú giải nội dung của Kinh Thánh. Tuy nhiên, trong tôn giáo không chỉ có liên minh với triết học mà ngược lại, đối với triết học cũng cần phải có sự tham gia tích cực của niềm tin tôn giáo; để từ đó vai trò của triết học được tỏ rõ trong lĩnh vực hoạt động của mình. Một truyền thống chỉ có lý trí mới cho phép con người nhận thức được chính mình, nhận thức được những vấn đề xung quanh mình như vũ trụ – con người.
Trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa, con người cần phải có lý trí dẫn đường để đức tin không bị mù quáng, sai lạc. Mặt khác, tin tưởng cũng là một hình thức suy tư. Thánh Augustin nói rằng, một người không có khả năng suy tư thì không có khả năng tin tưởng.
Đức tin soi sáng cho lý trí. Các Giáo phụ thời kỳ phôi thai, cho dù đã thấy được những điểm tích cực của triết học và vận dụng nó trong việc xây dựng niềm tin nơi con người, nhưng chưa nhìn nhận đúng mức về vai trò và mối tương quan giữa lý trí và đức tin. Đến thánh Giáo phụ Augustin thì đức tin và lý trí mới thực sự được nhìn nhận một cách đúng đắn hơn và sự dung hòa giữa chúng mới minh bạch hơn. Đây là giai đoạn có ý nghĩa trong việc dung hợp giữa đức tin và lý trí cách sâu xa nhất. Ta thấy ước vọng hiểu biết là một đặc tính chung của mọi người. Trí tuệ có thể giúp cho chúng ta tin và tin vững chắc hơn, kín múc được tầng nước sâu của đặc sủng. Mặt khác, thế giới và những gì xảy ra trong đó, cũng như những bước thăng trầm của lịch sử đều là những thực tại được nhìn nhận, được phán đoán bằng phương tiện riêng của lý trí. Nhưng đức tin không đứng như khách bàng quang, dửng dưng, cũng không phải là khách trọ trước một biến cố mới xảy ra nơi thực tại. Đức tin tham gia vào đó không làm giảm nhẹ quyền tự quyết của lý trí hay để hạn chế lãnh vực của nó, mà đức tin làm cho lý trí, hiểu biết của con người thêm vững mạnh hơn, sâu sắc hơn và hữu hiệu hơn. Đức tin làm cho cái nhìn bên trong sắc bén và giúp cho lý trí khám phá ra sự hiện diện của Đấng Anh Minh an bài mọi sự trong từng biến cố cuộc đời.
Vậy, qua những điểm nói trên, chúng ta nhận thấy rằng một Kitô giáo thực sự đã bước vào lịch sử nhân loại. Có lẽ những bước đi ấy không mang tính vang dội và quyết liệt bởi một sức mạnh võ trang, nhưng chỉ là một hạt giống âm thầm gieo vào lòng đất, lớn lên và phát triển. Đó là một sự trưởng thành đầy ý nghĩa về phẩm chất nhân văn, nhân bản của lịch sử Kitô giáo. Quả thật, với niềm tin Kitô giáo không phải là mảnh đời tách biệt với suy tư lý trí của con người, mà nó luôn luôn gắn liền với tư duy nhân loại.
Sách tham khảo
- Stumpf, Samuel E. Philosophy history & problems. New York: McGraw-Hill, 1994.
- Alston, William. “History of philosophy of riligion.” The Routledge Encyclopedia of philosophy. Vol. 8. Ed. E. Craig. New York: Routledge, 1998.
- Stumpf, Samuel E. & Abel, Donald C. Elements of philosophy. Người dịch: Lưu Văn Hy. TPHCM: TPHCM, 2004.
- Brown, Colin. Philosophy and the Christian Faith. Tyndale, 1969.
- Lê Tôn Nghiêm. Lịch sử triết học Tây phương, tập II, thời Trung cổ, TP. Hồ Chí Minh, 2000.
- Nguyễn Trọng Viễn. Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tập II, thời Trung cổ, 1998.
[1] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học Tây phương (TP. Hồ Chí Minh, 2000), tr. 20
CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA ĐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ QUA CÁC THỜI ĐẠI 2
II. Thời Kinh Viện
1. Thánh Anselmo – Đức tin tìm kiếm lý trí
Trước khi triết học Kinh viện đạt đến đỉnh cao ở thế kỷ XIII, thánh Anselmo (1033 – 1109) được coi là người đề cao lý trí và sử dụng suy tư triết học vào thần học một cách hài hòa hơn cả. Thánh nhân khẳng định rằng lý trí và đức tin dẫn tới cùng một kết luận. Ngài đi theo truyền thống Augustin vốn chủ trương dung hòa lý trí để hiểu nội dung của đức tin. Với công thức: “đức tin tìm kiếm lý trí” (Fides quoerens intellectum), thánh nhân đã nhìn thấy một sự hòa điệu căn bản giữa nhận thức do đức tin và nhận thức do lý trí. Lý trí giúp đức tin thêm sáng tỏ, đức tin không những không hạ giá lý trí mà còn hướng dẫn và cung cấp cho nó chất liệu để suy tư, giúp lý trí được mở rộng và kiện toàn hơn “tôi tin để được am hiểu” (Credo ut intelligam). Điều này không đối lập với quan điểm của Augustin, nhưng có phần khác. “Tôi tin để được am hiểu” và “Đức tin tìm kiếm lý trí” có nghĩa là không phải để đi tới đức tin bằng suy nghĩ mà là phải tin rồi mới suy nghĩ để am hiểu điều mình tin. Ngài không tìm cách khám phá chân lý về Thiên Chúa chỉ bằng lý trí mà thôi, nhưng muốn sử dụng lý trí để hiểu điều mình tin. Thật vậy, trí khôn con người không thể thâm nhập vào sự sâu thẳm của Thiên Chúa mà đức tin lãnh hội, nhưng đức tin tìm kiếm lý trí để “lý giải” những điều sâu thẳm.
2. Thánh Thomas D’Aquin – phân biệt giữa đức tin và lý trí
Sự dung hòa giữa đức tin và lý trí về sau được tư tưởng gia nỗi lạc Thomas D’Aquin tiếp tục phát triển và kế thừa có chọn lọc. Ngài lấy những tinh hoa của triết học làm nền tảng cho sự phát triển và khám phá mới, hầu làm cho sự dung hòa này đạt đến đỉnh điểm của nó. Đối với thánh nhân, cả lý trí và đức tin đều là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại.
Nếu như thánh Augustin lấy triết học của Platon làm nguồn suối nền tảng, thì triết lý thánh Thomas là một công trình suy tư từ học thuyết triết học Aristote. Bên cạnh đó, thánh nhân còn tổng hợp từ nhiều triết thuyết khác nhau, như trường phái Khắc kỷ, thuyết Platon mới, Augustin và Boece, cộng với sự phản chiếu từ một số ý tưởng của những nhà giải thích Hy Lạp về Aristote và của Cicéron, Avicenne, Averroès…
Tổng hợp từng ấy yếu tố, người ta không khỏi nghĩ rằng đó là một thứ triết lý hỗn tạp, nhưng nó đã thực sự được nhào nặn qua thực hành triết lý và thực tiễn lý thuyết của những tiền bối thành một triết lý hệ thống. Chính hệ thống ấy đã để lộ ra ấn tích trí khôn và tầm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống Kitô giáo của ngài.
Một trong những khuynh hướng triết lý rõ ràng nhất của thánh Thomas D’Aquin đó là tìm một giải pháp trung dung, hòa giải cho các vấn đề khác nhau của triết học. Khi chủ trương thuyết duy thực ôn hòa, thánh Thomas giải quyết vấn đề về phổ biến niệm (universal) giữa hai cựu đoan của thuyết duy danh và thuyết duy thực.
Thánh Thomas cho rằng, những phổ biến niệm không phải là những thực tại có thực biệt lập như kiểu những lý tưởng trên lý giới. Đó là lập trường duy danh, nhưng không phải là duy danh cực đoan, vì ngài không chủ trương những phổ biến niệm chỉ là những hư từ, một khi chúng không phải là những thực tại biệt lập. Theo ngài, phổ biến niệm là những khái niệm và phán quyết tổng quát của trí khôn con người. Nhưng chúng không phải những hư danh vô nền tảng mà chúng có nền tảng trong thực tại ở ngoài trí khôn con người. “Nền tảng” ấy là nền tảng cho tính cách phổ biến. Đó là lập trường duy thực, nhưng không phải là duy thực cực đoan. Vì ngài cho rằng, mỗi cá nhân đều có nhân tính phổ biến, hiện tại và biệt lập cho riêng mình. Nhưng chỉ có những cá nhân là những thực tại có thực, song có những điểm giống nhau (phổ biến) từ cá nhân này qua cá nhân khác trong cùng một chủng loại hay cùng một tiểu loại. Sự giống nhau này là nền tảng để nghĩ rằng chúng có một bản tính chung, phổ biến cho mọi người.
Khác với Thánh Augustin, trong tư tưởng và học thuyết của thánh Thomas, vai trò của lý trí và đức tin được phân định một cách rõ ràng hơn. Theo ngài, tất cả những chân lý đã biết được hay có thể biết được một cách hiển nhiên bằng trải nghiệm hay bằng chứng minh là thuộc về lĩnh vực lý trí; còn tất cả mọi chân lý không biết được bằng hiển nhiên mà chỉ duy nhất bằng mạc khải thì thuộc về lĩnh vực đức tin. Vì lẽ đó, thánh Thomas cũng phân rõ ranh giới giữa triết học và thần học, nhưng không có sự đối lập giữa chúng. Ngài cho rằng, đối tượng của triết học là chân lý của lý trí, đối tượng của thần học là chân lý của niềm tin tôn giáo; còn Thiên Chúa là khách thể cuối cùng của cả triết học và thần học, là nguồn gốc và nền tảng của mọi chân lý. Như vậy, trong quan điểm của thánh nhân, không có sự đối lập giữa đức tin và lý trí, ngược lại chúng có một điểm chung cùng đích là Thiên Chúa. Bên cạnh đó, cả đức tin và lý trí đều là những tác động (thông qua mạc khải hay phản ánh) và thái độ đón nhận của con người (thông qua phản tỉnh); vì khi tin tưởng, người tín hữu không chỉ được khích lệ bởi ý muốn chấp nhận đức tin mà còn nhờ vào sự soi sáng, ban ơn của Thiên Chúa. Còn khi tri thức, mỗi người được khích lệ bởi chính nhận thức (xuất phát từ bản chất khao khát tìm kiếm chân lý) của mình.
Có thể nói, trong các tư tưởng lớn của thời trung cổ, tư tưởng Thánh Thomas D’Aquin là đầy đủ nhất. Người ta quen nói ngài đã rửa tội cho triết gia Aristote. Đi theo truyền thống Aristote vốn duy lý hơn Platon mà Augustin, Anselmo và Bonaventura kế thừa và đề cao, thánh Thomas có tinh thần cởi mở hơn cả.
Đến đây cũng cần nói thêm học thuyết triết học vô thần đã có những nhận định hơi quá khích và sai lạc về triết học của thánh Thomas. Họ cho rằng: “chủ nghĩa Thầy tu (ý nói triết học của Thánh Thomas) đã giết chết những gì sinh động nhất trong triết học của Aristote và làm thành bất tử những gì đã chết rồi”[1].
Thực ra, một tư tưởng dù vĩ đại đến đâu nhưng nếu nó không phục vụ cho con người thì tư tưởng ấy sẽ thành vô dụng. Thánh Thomas đã làm cho triết học của Aristote trở nên hữu dụng và sinh động chứ không phải là “giết chết” theo cách hiểu của chủ nghĩa vô thần. Như vậy, có thể phủ nhận vế thứ nhất của quan điểm trên. Mặt khác, ở vế thứ hai từ “chết” của Lênin không mang ý nghĩa như từ “chết” trong quan niệm của Kitô giáo, mà là cái chết của một đối tượng đã bị “giết”, đó là cái chết tiêu cực.
Thánh Thomas không e dè chút nào đối với triết học, cởi mở đón nhận chân lý dù nó đến từ bất cứ nguồn nào. Sự tác động của ngài đến triết học của Aristote đã làm cho nó trở nên hữu hiệu và sinh động hơn bao giờ hết.
Dĩ nhiên, trong quan điểm của thánh nhân, triết học đi sau thần học và phục vụ cho thần học, là nữ tỳ của thần học. Tuy nhiên, trong phạm vi riêng của mình, triết học đứng tự lập và được xảy ra đến tận cùng khả năng của nó. Từ nhiều thế kỷ nay, tư tưởng của Thánh Thomas được Giáo hội Công giáo lấy làm học thuyết chính thức trong các trường dạy thần học, trường đại học Công giáo và các đại chủng viện.
3. Những bài học từ triết học Kinh viện
Triết học thời kỳ Kinh viện đã tiếp bước những bước đi của các Giáo phụ trong vấn đề giải quyết mối tương quan giữa đức tin và lý trí, dung hoà giữa triết học với thần học. Trong hai quan điểm được phân tích trên đây, quan điểm của Anselmo rất gần gũi với thời kỳ các Giáo phụ. Nhưng quan điểm của thánh Thomas thì khác trong cách nhìn về vai trò và mối tương quan giữa đức tin và lý trí. Nếu như thánh giáo phụ Augustin đề cao ý chí, thì thánh Thomas lại đề cao lý trí; thánh Augustin chủ trương dung hòa giữa triết học với thần học, còn thánh Thomas lại phân định rõ ràng giữa hai lĩnh vực này mặc dù ngài không đối lập giữa chúng. Như vậy, trong tư tưởng của thánh Thomas, lý trí có “đất sống” của mình.
Lý trí, trong phạm vi hoạt động của nó, phải có tính độc lập với đức tin; triết học là một khoa học riêng mà đối tượng của nó là tự nhiên, xã hội và tư duy. Lý trí khởi đi từ tạo vật, từ những điều khả giác để lần bước lên đến Thiên Chúa là nguyên nhân tạo thành.
Đức tin vượt quá lý trí trong khả năng đặt tới những đối tượng siêu việt mà một lý trí tự nhiên sâu sắc nhất không đặt tới. Thần học khởi đi từ những chân lý mạc khải và từ chính Thiên Chúa. Có những lĩnh vực của đức tin mà lý trí tỏ ra mù mờ.
Do đó, giữa triết học và thần học có một ranh giới, mỗi lĩnh vực có khả năng và trách nhiệm của riêng mình. Chúng có thể hỗ trợ cho nhau trên con đường tìm kiếm chân lý. Lý trí giúp cho đức tin sáng tỏ hơn và vững chắc hơn; đức tin chắp cánh cho lý trí đi xa hơn trong việc khám phá vũ trụ. Trong mối tương quan này nếu quá đề cao đức tin sẽ làm hạn chế vai trò của lý trí, làm cho nó không khai mở được những khám phá mới, không trả lời được những khúc mắc của thời đại. Tuy nhiên, cả đức tin và lý trí đều xuất phát từ Thiên Chúa và cuối cùng quy về Thiên Chúa nên không mâu thuẫn nhau.
Sách tham khảo
1. Stumpf, Samuel E. Philosophy history & problems. New York: McGraw-Hill, 1994.
2. Alston, William. “History of philosophy of riligion.” The Routledge Encyclopedia of philosophy. Vol. 8. Ed. E. Craig. New York: Routledge, 1998.
3. Stumpf, Samuel E. & Abel, Donald C. Elements of philosophy. Người dịch: Lưu Văn Hy. TPHCM: TPHCM, 2004.
4. Brown, Colin. Philosophy and the Christian Faith. Tyndale, 1969.
5. Lê Tôn Nghiêm. Lịch sử triết học Tây phương, tập II, thời Trung cổ, TP. Hồ Chí Minh, 2000.
6. Nguyễn Trọng Viễn. Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tập II, thời Trung cổ, 1998.
[1] V.I. Lnin: Tồn tập (Tiến bộ, Mtxcơva, 1981), tr 29, tr 389.
CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA ĐỨC TIN VÀ LÝ TRÍ QUA CÁC THỜI ĐẠI 3
III. THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
Sau thời kỳ Kinh viện, thần học vẫn giữ mối liên hệ hữu cơ với triết học, nhưng nhìn nhận quyền tự quyết cần thiết để triết học và khoa học hoạt động cách hữu hiệu trong lãnh vực nghiên cứu liên hệ. Tuy nhiên, sự phân biệt chính đáng này đã biến thành sự chia rẽ tai hại. Từ thời Cận đại đến Hiện đại, vì não trạng quá duy lý của một số nhà tư tưởng, những lập trường trở thành cấp tiến đến độ đã làm cho triết học ly tán và hoàn toàn độc lập với nội dung của đức tin. Một trong số những hệ quả của ly tán này có sự thiếu tin tưởng ngày càng gia tăng đối với chính lý trí. Có những người bắt đầu ngờ vực phổ quát, hoài nghi và bất khả tri, hoặc để dành cho đức tin một lãnh vực rộng rãi, hoặc để gieo sự thất tín vào mọi cách viện lý cho đức tin. Thời Hiện đại, phần lớn tư tưởng triết học phát triển bằng cách dần dà xa lìa mạc khải Kitô giáo, đến độ chống lại mạc khải ấy một cách minh nhiên. Phong trào này đạt đến đỉnh cao từ giữa thế kỷ 19 đến thế kỷ 20. Một số đại diện của thuyết duy tâm đã tìm những cách thức khác để biến đổi đức tin và nội dung của nó, kể cả mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu, thành những cơ cấu biện lý và sau cùng coi nó là vô nghĩa. Đối lập với các tư tưởng này là những hình thức nhân bản vô thần, đã coi tôn giáo như một điều độc hại và tha hoá đối với sự phát triển của lý trí. Họ tự khuếch trương mình như một thứ tôn giáo mới, dùng làm nền tảng cho những ý đồ chính trị và xã hội, nhân danh giải phóng những người lao khổ. Nhưng ý đồ đó đã để lộ ra tư tưởng độc tài có hệ thống và gây ra bao đau thương cho nhân loại. Đứng trước thực tại này, Giáo hội một mặt thể hiện lập trường của mình trước ý thức hệ thời đại, mặt khác khẳng định vai trò của đức tin và lý trí trong nhận thức. Khởi đi từ truyền thống của Giáo hội, đặc biệt là thời các Giáo phụ và thời kỳ Kinh viện, các Công đồng Vatican đã đề cao mối tương quan giữa lý trí và đức tin. Bên cạnh đó là sự cố gắng không mệt mỏi của ĐGH Gioan Phaolô II và Benedictô XVI trong việc nỗ lực dung hoà giữa đức tin và lý trí, giữa triết học và thần học trong thời đại hôm nay.
1. Các Công đồng Vatican
Khởi đi từ tư tưởng của thánh August và thánh Thomas, Công đồng Vatican I dạy rằng: chân lý mà ta đạt được do con đường suy luận triết học và chân lý do mạc khải không hỗn đồng với nhau, hai thực tại này không làm cho nhau dư thừa. Tuy nhiên, Công đồng cũng phân biệt tính chất đặc thù của lý trí và của đức tin. Hai lãnh vực này khác nhau không những bởi nguồn gốc mà còn bởi đối tượng. Bởi nguồn gốc, tri thức của con người có được là nhờ lý trí tự nhiên; còn trong lãnh vực đức tin là nhờ mạc khải của Thiên Chúa. Bởi đối tượng, vì ngoài những chân lý mà lý trí tự nhiên có thể đạt được, còn có những mầu nhiệm được trình bày để chúng ta tin, những mầu nhiệm giấu ẩn trong Thiên Chúa, nếu không được mạc khải thì không thể biết được.[1] Được đặt nền tảng trên chứng tá của Thiên Chúa, lại thừa hưởng sự trợ giúp siêu nhiên của ân sủng, đức tin thuộc lãnh vực khác với nhận thức triết lý.
Thật vậy, nhận thức triết học dựa trên sự thâu nhận giác quan, trên kinh nghiệm, và phát triển nhờ ánh sáng của một mình lý trí. Triết học và các khoa học diễn tiến trong lãnh vực của lý trí tự nhiên, còn đức tin được Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn, nhận ra trong sứ điệp cứu độ “sự sung mãn của ân sủng và chân lý” (Ga 1,14) mà Thiên Chúa đã mạc khải cho nhân loại qua dòng lịch sử, và mạc khải một cách dứt khoát qua Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô (x. 1Ga 5,9).
Đứng trước mầu nhiệm, “phải lấy sự tuân phục đức tin để đáp lại Thiên Chúa là Đấng mạc khải” (DV. 5). Với lời khẳng định súc tích này, chân lý nền tảng của Kitô giáo được giãi bày. Công đồng nói: đức tin là lời đáp tuân phục Thiên Chúa. Điều đó ngầm chứa việc nhìn nhận Người trong Thiên Chúa tính, trong sự siêu việt và trong sự tự do tuyệt đối của Người. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ta biết, thì với thế giá siêu việt tuyệt đối của mình, cũng cung cấp những lý do khả tín về những điều Người mạc khải. Nhờ đức tin, con người chấp nhận chứng tá của Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa con người thừa nhận một cách trọn vẹn và đầy đủ chân lý của những điều được mạc khải, vì chính Thiên Chúa bảo đảm cho chân lý ấy. Chân lý này được ban cho con người, kích thích lý trí suy tư và tìm hiểu về chân lý ấy, và đón nhận ý nghĩa thâm sâu của nó. Trong đức tin, chẳng những con người có tự do, lại còn cho phép mỗi người biểu lộ hoàn hảo nhất sự tự do của mình.
Tuy nhiên, lý trí khi nhận thức đức tin nó không phá tan mầu nhiệm, nhưng làm cho mầu nhiệm rõ ràng hơn và giãi bày mầu nhiệm cách hợp lý cho con người. Giáo huấn của các CĐ Vatican còn mở ra phối cảnh chân thực của những điều mới mẻ đối với nhận thức triết học. Mạc khải đưa vào lịch sử một điểm quy chiếu mà con người không thể không biết, nếu muốn thấu hiểu mầu nhiệm cuộc đời của mình; nhưng mặt khác, nhận thức ấy cũng luôn luôn quy hướng đến mầu nhiệm Thiên Chúa, mà trí khôn không thể khám phá triệt để và chỉ có thể đón nhận trong đức tin. Giữa hai giai đoạn ấy, lý trí có một khu vực riêng biệt cho phép nó tìm kiếm và hiểu biết, mà không bị giới hạn ngoài tính hữu hạn của nó trước mầu nhiệm vô cùng của Thiên Chúa.
Chân lý mạc khải Kitô giáo mà ta thấy nơi Đức Giêsu Kitô, là một thực tại giúp con người biết định hướng trong khi tiến bước giữa những áp lực của não trạng duy tâm, duy vật và những gò bó của óc kỹ thuật. Nó là khả năng sau cùng Thiên Chúa cung cấp cho nhân loại để tìm lại tình yêu sung mãn, đã được bắt đầu khi tạo thành: “Anh em sẽ nhận biết chân lý, và chân lý sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32).
Chân lý mà Mạc khải cung cấp cho ta không phải là trái chín mùi, nó đòi hỏi được đón nhận bằng tình yêu. Chân lý này dành cho những ai tin vào Thiên Chúa và tìm kiếm Người với trái tim chân thành. Cứu cánh của cuộc nhân sinh là đối tượng triết học cũng như thần học đòi hỏi. Cả hai, với những phương tiện khác nhau và những nội dung khác nhau, đều nhìn vào “con đường sự sống” (Tv 16,11). Bởi vậy, việc nghiên cứu khoa học, nếu được tiến hành đúng theo chuẩn mực của nó, sẽ không bao giờ thật sự đối nghịch với đức tin, bởi vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều có nguồn gốc là bởi cùng một Thiên Chúa. Hơn nữa, những ai đang khám phá những lẽ huyền vi của tạo vật, của vũ trụ, thì mặc dù ý thức hay không ý thức, họ vẫn như được dẫn đưa bởi bàn tay của Thiên Chúa, “Đấng làm cho hiện hữu những gì đang hiện hữu”.[2]
2. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Mở đầu thông điệp Đức tin và lý trí, ĐGH Gioan Phaolô II viết: “Đức tin và lý trí như là đôi cánh giúp trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý. Thiên Chúa đã in vào tâm khảm con người khát vọng nhận biết chân lý, và sau cùng để nhận biết chính Người, ngõ hầu khi đã biết và yêu mến Người thì con người cũng nhận biết chân lý đầy đủ về chính mình”.
Vốn là người luôn theo sát tư tưởng truyền thống thời các Giáo Phụ và Kinh viện, ĐGH Gioan Phaolô II không đề nghị một nền tảng triết học riêng biệt, cũng không phong thần cho một hệ thống triết học đặc thù, nhưng làm sáng tỏ mối liên hệ giữa đức tin và lý trí, giữa thần học và triết học. Ngài đã nhìn xa hơn đến những chân lý phổ quát và đã đặt ra những nền tảng hữu lý cho đức tin.
Với công thức “Tôi tin để hiểu” trong thông điệp Đức tin và lý trí, ĐGH Gioan Phaolô II khẳng định: “Đức tin làm cho cái nhìn bên trong được sắc sảo hơn, và giúp cho trí tuệ khám phá sự hiện diện sinh động của Đấng an bài trong diễn tiến của các biến cố” (số 16). Điều này phù hợp với sách Châm ngôn: “Tâm trí con người nghĩ ra đường lối, còn Thiên Chúa hướng dẫn từng bước đi” (Cn 16,9). Con người biết nhìn nhận đường lối của mình theo ánh sáng của lý trí, nhưng đặt việc khám phá của mình trong phối cảnh của đức tin mới khám phá được Đấng Anh Minh an bài mọi sự. Ngài cũng khẳng định lý trí và đức tin không thể tách biệt nhau và không làm cho con người mất khả năng nhận biết chính mình và nhận biết vũ trụ.
ĐGH đề cập đến thời kỳ Cận đại là giai đoạn lịch sử triết học phân ly dần dần giữa đức tin và lý trí triết học. Ngài cho rằng đức tin và lý trí mà đối đầu nhau đều trở nên nghèo nàn và suy yếu. Tương quan giữa lý trí và đức tin đòi hỏi một lỗ lực chăm chú để biện phân. Lý trí, mất trợ lực của đức tin sẽ liều mình đánh mất cứu cánh. Đức tin, thiếu lý trí, có nguy cơ không còn là mệnh đề phổ quát và trở thành thần thoại và mê tín (x. số 48).
Thật vậy, chính đức tin kích thích lý trí thoát khỏi tình trạng cô lập, và tình nguyện đương đầu với những gian nguy để tìm kiếm tất cả những gì là chân, thiện, mỹ. Đức tin tự nó là xác tín và làm cho lý trí xác tín.
3. Đức Giáo Hoàng Benedictô
Tiếp nối tư tưởng truyền thống, ĐGH Benedictô khẳng định đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau, trong một số trường hợp đức tin vượt trên lý trí nhưng không bao giờ tương phản với lý trí. Lý trí có khả năng sáng tạo, tham dự vào việc nhận biết Thiên Chúa. Cả đức tin và lý trí đều là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại.
Nếu như ĐGH tiền nhiệm biện phân giữa đức tin và lý trí trong việc nhận biết Thiên Chúa, thì ĐGH Benedictô lại cho rằng đức tin và ánh sáng của lý trí đồng nghĩa với nhau trong những gì cao siêu nhất. Trong tông huấn Verbum Domini, ngài khẳng định phải có một đức tin nắm vững một tương quan thích đáng với lý trí ngay thẳng và không bao giờ được thoái hoá thành chủ trương duy tín, đưa tới cách đọc Kinh Thánh theo cơ cấu bảo thủ. Đàng khác phải có một lý trí, trong khi đi tìm các yếu tố lịch sử có trong Kinh Thánh, tỏ ra cởi mở và không tiên thiên bác bỏ tất cả những gì vượt quá tầm mức của mình. Nói cho cùng, tôn giáo của Lời nhập thể sẽ chỉ có thể cho thấy rằng tôn giáo này hết sức hợp lý đối với bất cứ ai chân thành đi tìm chân lý và ý nghĩa tối hậu của đời mình và của lịch sử.
Đứng trước những viễn tượng của thời đại, ĐGH lên án việc sử dụng đức tin như một cái cớ để biện minh cho bạo lực. Trong bài phát biểu tại đại học Ratisbonne, nước Đức năm 2008, ĐGH nói: “Máu đổ không làm vui lòng Thiên Chúa. Hành động vô lý trí là đi ngược lại bản tính của Người”.
Thế giới đang đầy những bất hoà, mà khuôn mặt của nó là những hình thức bạo lực nhân danh tôn giáo. Chúng được biểu lộ khác nhau về động lực và chi tiết. Những cuộc khủng bố tấn công nhằm mục tiêu rõ ràng, nhưng không để ý gì đến những sinh mạng vô tội bị giết hại dã man. Bên cạnh đó là những cuộc bách hại Kitô giáo ngày càng gia tăng, đặc biệt ở Irak, Ấn Độ, Pakistan…. Các Kitô hữu bị giết hại, bị loại trừ và bị tước đoạt các quyền con người. Đứng trước tình trạng này, ĐGH Benedictô đã nhiều lần lên án và chống lại chủ nghĩa khủng bố và cho đó là hành động đi ngược lại với cả lý trí và tôn giáo chân chính.
Quả vậy, con người không thể tôn vinh Thiên Chúa bằng việc giết hại đồng loại của mình. Đức tin là hoa trái của tâm hồn, và là một nhu cầu tự tại, nó phải được đón nhận một cách tự do trên cơ sở nhận biết, không thể dùng bạo lực để ép buộc người khác tin hay thuộc về tôn giáo của mình. Đó không phải là bản chất chân thật của tôn giáo. Trái lại, đó là sự xuyên tạc tôn giáo và góp phần phá hoại tôn giáo.
Trong lịch sử, người ta cũng đã nhân danh đức tin Kitô giáo để sử dụng bạo lực. Đây là điều đáng xấu hổ. Nhưng một điều tuyệt đối rõ ràng đó là đức tin Kitô bị lạm dụng một cách trái ngược với bản chất đích thực của đức tin này. Thiên Chúa mà các tín hữu Kitô tin chính là Đấng Tạo Hoá và là Cha của tất cả mọi người. Do đó, mọi người là anh chị em với nhau và họp thành một gia đình duy nhất. Nhân loại không bao giờ từ bỏ cuộc chiến chống bạo lực và quyết tâm xây dựng hoà bình trên thế giới. Tôn giáo chân chính được linh hoạt nhờ cùng một ước muốn chung, ước muốn trở thành những người lữ hành của chân lý, những người lữ hành của hoà bình.
4. Những bài học từ thời hiện đại
Nhìn chung, cách nhìn về mối tương quan giữa đức tin và lý trí thời kỳ Hiện đại không có bước đột phá rõ ràng, nhưng đi theo sát truyền thống và thích ứng với những biến cố của thời đại. Các tư tưởng gia đã cho thấy rõ cả đức tin và lý trí là hồng ân của Thiên Chúa. Mặc dù đức tin vượt trên lý trí ở một số vấn đề, nhưng không bao giờ có sự mâu thuẫn thật sự giữa đức tin và lý trí. Vì cùng một Thiên Chúa Đấng mạc khải mầu nhiệm và tuôn đổ đức tin, cũng là Đấng thông ban ánh sáng lý trí cho con người, mà Thiên Chúa không mâu thuẫn với chính mình Ngài, cũng như điều chân thật không bao giờ nghịch lại điều chân thật. Việc nghiên cứu có phương pháp trong mọi ngành khoa học và triết học sẽ không bao giờ đối nghịch với đức tin. Bởi vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều có nguồn gốc là bởi cùng một Thiên Chúa.
Đức tin là một hành vi nhân linh. Chỉ có thể tin nhờ ân sủng và những trợ giúp nội tâm của Chúa Thánh Thần. Tin vào Thiên Chúa và gắn bó với những chân lý do Ngài mạc khải không đi ngược với tự do và trí khôn con người. Trong đức tin, lý trí và ý chí con người cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: Tin là một hành vi của lý trí chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo mệnh lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân sủng. Đúng vậy, khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu nói với ông rằng không phải huyết nhục mạc khải cho ông điều ấy, nhưng là Cha của Người, “Đấng ngự trên trời” Mt 16,17). Để có được đức tin cần có ân sủng của Thiên Chúa giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý.
Động lực chúng ta tin không phải là vì các chân lý Mạc khải tỏ hiện là xác thật và có thể hiểu được một cách rõ ràng đối với ánh sáng của lý trí tự nhiên của con người. Chúng ta tin vì uy quyền của chính Thiên Chúa. Đấng mạc khải là Đấng không thể sai lầm cũng không thể lừa dối ta. Tuy nhiên, để đức tin của chúng ta quy phục và phù hợp với lý trí, Thiên Chúa đã muốn có những bằng chứng bên ngoài về mạc khải của Ngài kèm theo sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần. Chẳng hạn, phép lạ của Đức Giêsu và của các thánh, đó là những dấu chỉ chắc chắn của Mạc khải Thiên Chúa, những dấu chỉ đó phù hợp với lý trí mọi người, đó là những động lực khiến chúng ta tin. Những động lực đó cho thấy sự ưng thuận của đức tin hoàn toàn không phải là một hành vi mù quáng của tâm trí.
Đức tin tuyệt đối không được sử dụng vào mục đích bạo lực. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, bạo lực nhân danh đức tin là đi ngược lại bản chất của nó.
Nguồn: Đa Minh Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét