Yêu
sao cho đúng, cho tốt, cho đẹp?
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
Lời mở
Chúa Nhật V Phục Sinh năm C vừa qua, chúng ta đã tìm
hiểu về tình yêu cuồng dại và tình yêu phi thường khi bàn về “điều răn mới” của
Chúa Giêsu. Đây là phần áp dụng cho bài học về tình yêu.
Câu
hỏi đặt ra cho người tín hữu chúng ta hôm nay là “Yêu sao cho đúng, cho tốt, cho
đẹp?”. Nhiều học viên trong lớp đã có kinh nghiệm về tình yêu nên đây là dịp để
chúng ta bàn luận và chia sẻ về bài học yêu thương của mình và tìm cách giúp
nhau để yêu cho đúng, cho tốt đẹp. Từ đó ta mới thật sự cảm nhận được hạnh phúc
và sự sống kỳ diệu trong tình yêu thay vì cảm thấy “yêu là khổ, là chết ở trong
lòng một ít”.
Vài
gợi ý sau đây chỉ là những điểm hướng dẫn xin góp thêm vào cho cuộc bàn luận của
các bạn.
“Muốn yêu đúng, yêu đẹp,
- Trước hết, ta phải giải nghĩa được tình yêu của
mình.
- Sau đó ta nên hành động theo tiếng gọi chân thiện mỹ
của tình yêu.
- Cảm nhận được hạnh phúc thật sự của tình yêu.
- Cuối cùng chúng ta hãy yêu trong tin tưởng và hy
vọng”.
1. Làm sao giải nghĩa được tình yêu!
1.1. Định nghĩa tình yêu
Tình yêu là một từ khó định nghĩa, dù rằng nó luôn được
nhắc đến trong đời sống hằng ngày. Trong 4 cuốn Từ điển Bách khoa Việt
Nam không thấy có mục từ tình yêu. Quả thật, trong ý thức hệ duy vật
và vô thần, tình yêu rất khó giải nghĩa hoặc chỉ có những định nghĩa phiến diện
vì tình yêu không thuộc về vật chất. Có mổ trái tim hay bộ não để phân tích, các
nhà khoa học cũng không thể nào tìm thấy vết tích của tình yêu. Vì thế, nhà thơ
Xuân Diệu mới nhắc nhở chúng ta rằng:
“Làm sao giải nghĩa được tình
yêu,
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.”
Nhà
thơ Công giáo Hàn Mặc Tử quả quyết rõ hơn rằng:
Ai hãy làm thinh, chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo,
Để nghe tơ liễu run trong gió,
Và để nghe Trời giải nghĩa yêu!
Chỉ
có Trời mới giải nghĩa được tình yêu vì tình yêu thật sự bắt nguồn từ chính
Thiên Chúa.
Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa: tình yêu là một
tình cảm nồng nhiệt, làm cho gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với
người, với vật mình yêu. Nghĩa thứ hai: tình yêu là tình cảm yêu đương
nam nữ. Khi nói đến tình yêu người ta thường nghĩ ngay đến nghĩa thứ hai chứ
không để ý đến nghĩa quan trọng thứ nhất, nghĩa này nhắc nhở chúng ta yêu thật
sự là gì và phải có trách nhiệm với nhau. Nhiều bạn trẻ yêu mà chẳng có trách
nhiệm gì, cứ quan hệ tình dục với nhau để rồi mang thai, phá thai và bỏ nhau.
1.2. Đừng lẫn lộn tình yêu với lòng thương
hại
Có
lẽ vì nghĩa thứ hai này mà nhiều người Công giáo sợ không dám nói đến tình yêu,
nhất là đối với những ai “đi tu”, nên họ phải dùng từ “tình thương” thay thế.
Thí dụ như trong cuốn Thư chung Hậu Đại hội Dân Chúa năm 2010, người ta
dùng tựa đề “Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống” (x. Hội đồng
Giám mục Việt Nam, Thư Chung…, Trung tâm Mục vụ, 2011). Tuy nhiên, nếu
những người đi tu đó không biết gì về tình yêu, không dám yêu một cách chân
thành, mãnh liệt, quảng đại và bao la như Đức Giêsu thì họ chẳng cứu thoát được
chính mình và càng không thể cứu độ được người khác! Nhiều người đi tu tự hào
mình có tình thương hơn người, họ chứng minh bằng các việc từ thiện, bác ái xã
hội, nhưng tận thâm tâm họ không yêu.
Tình thương khác với tình yêu. Tình thương, theo định
nghĩa, là “có tình cảm gắn bó và thường tỏ ra quan tâm săn sóc cho người mình
thương” như cha mẹ thương con cái; nhất là nó mang tính cách thương hại “vì cảm
thấy đau đớn xót xa trong lòng trước một hoàn cảnh không may nào đó” (x. Viện
Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2005).
Khi
đồng hoá tình yêu với tình thương, người ta làm nghèo ý nghĩa của tình yêu.
Nhiều người đã hiểu lầm “hình như mình yêu” và làm cho người khác hiểu lầm “mình
có tình ý với người ta” khi có những hành động săn sóc, quan tâm đến người khác
vì cùng một hành động săn sóc, giúp đỡ nhau, người ta có thể làm vì yêu mà cũng
có thể vì thương. Trong đời sống gia đình, lấy nhau chỉ vì tình thương thôi thì
rất nguy hiểm, vì sau đó có thể lại “yêu” người khác thì cuộc hôn nhân lúc đầu
có nguy cơ tan vỡ, gây đau khổ lớn lao cho nhiều người. Có lẽ vì thế mà người ta
thường ghép cả hai thành một từ “tình yêu thương” hay “lòng yêu thương” cho đỡ
tốn công phân biệt.
Xét
về khía cạnh thần học, nếu chỉ nói mình “thương Thiên Chúa” thì không biết Chúa
có gặp cảnh ngộ không may nào không! Nhưng Chúa thật đáng thương vì Chúa yêu
người mà người không đáp lại! Chúa thương chúng ta thì đúng vì chúng ta có những
hoàn cảnh không may, nhưng chúng ta thương hại Chúa thì có lẽ chưa đúng lắm vì
Chúa là Đấng hoàn hảo, giàu sang vô cùng, thánh thiện vô biên! Nhưng đây chỉ là
phân tích ngôn ngữ thôi, chứ con người được quyền vừa yêu vừa thương Thiên
Chúa.
1.3. Đi tìm lời định nghĩa đúng
Đức
Thánh Cha Bênêđictô XVI đã quan tâm rất nhiều đến tình yêu con người và giải
nghĩa cho ta hiểu tình yêu đó bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa nên cần phải yêu
thế nào cho xứng với tình yêu này. Trong thông điệp đầu tiên của ngài công bố
vào năm 2005 “Thiên Chúa là Tình yêu” (Deus est Caritas), ngài đã dành
trọn phần thứ nhất (từ số 3 đến 15) trong hai phần, để giải thích cho chúng ta
về tình yêu.
Tiếng La tinh có hai từ diễn tả tình yêu là amor (yêu
theo nghĩa tự nhiên) và caritas (yêu theo nghĩa siêu nhiên, yêu rộng, bác
ái,). Xét về nguồn gốc, tiếng Hy Lạp có ba từ diễn tả tình yêu: eros
(tình ái), philia (tình bằng hữu) và agape (tình bác
ái). Eros là tình yêu nhận về, là tình yêu nhắm vào những rung động
thể xác, agape là tình yêu cho đi, hướng đến những hạnh phúc tinh thần.
Nhiều khi chúng ta được giảng dạy chỉ nên có tình yêu vị tha, cho đi với những
hạnh phúc tinh thần hơn là kiểu tình yêu chiếm hữu, nhận vào với những rung động
thể xác.
Tuy
nhiên, Đức Thánh Cha đã nhắc nhở chúng ta: con người là một thực tại duy nhất
hướng đến nhiều lĩnh vực khác nhau, và tình yêu là hoạt động của con người cũng
chỉ là một thực tại duy nhất với những chiều kích khác nhau. Vào những thời điểm
khác nhau thì chiều kích này có thể xuất hiện rõ hơn chiều kích khác. Nếu tách
rời những chiều kích tình yêu, chúng ta chỉ làm nghèo nàn nó (số 8) và nó cũng
không còn là tình yêu của con người toàn diện.
Khi
Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh mình, trao tình yêu cho con người
là Ngài muốn cho con người thật sự yêu thương toàn diện và vô biên như Ngài. Con
người được mời gọi mở ra cho những chiều kích mới mẻ của tình yêu mà Thánh Kinh
đã diễn tả cho chúng ta (số 9-11), nhất là mời gọi chúng ta thể hiện tình yêu
như Đức Kitô vì Đức Kitô là hiện thân của Thiên Chúa Tình yêu (số
12-15).
1.4. Nội dung của tình yêu
Chúng ta hiểu con người có 4 lĩnh vực để đưa tình yêu
vào: đó là thể xác và tinh thần, nội tâm và ngoại giới, tự nhiên và siêu nhiên,
cá nhân và tập thể và 4 mối tương quan để yêu thương: tình yêu đối với Thiên
Chúa, với anh em, với vạn vật và với chính mình. Người Công giáo chúng ta
được nghe nói nhiều về tình bác ái, nhưng nhiều khi chúng ta hô hào yêu thương
như một khẩu hiệu hơn là tìm hiểu kỹ lưỡng về các lĩnh vực và tương quan để biết
yêu thương cách cụ thể và hiệu quả.
Vì
thế, không phải chúng ta áp dụng chung một khẩu hiệu yêu thương cho cả tỷ người
Công giáo, mà cần phải nhìn vào con người cụ thể của mình. Con người này gồm
nhiều yếu tố. Yếu tố thứ nhất là di sản văn hoá do ông bà tổ tiên để lại mà
người Việt Nam chúng ta đang có. Người Việt Nam yêu khác người Anh, Pháp, Mỹ vì
di sản của ông bà cha mẹ tổ tiên để lại cho chúng ta trong bốn ngàn năm qua khác
với di sản của các dân tộc khác.
Sống trong 11 thế kỷ đô hộ của người Trung Hoa, chúng ta
luôn thù ghét, đề phòng người khác, dù bề ngoài lúc nào cũng tươi cười. Điều này
đã ăn sâu vào trong cấu trúc tâm lý văn hoá của người Việt Nam nên chúng ta khó
yêu thương thật lòng. Sau đó, theo dòng lịch sử, từ năm 938-1975, rất nhiều cuộc
chiến tranh chống ngoại xâm, nhiều cuộc nội chiến tương tàn giữa chúa Trịnh –
chúa Nguyễn, giữa tư bản và cộng sản… khiến người Việt Nam chúng ta thường giữ
lòng thù hận thay vì yêu thương. Đó là nói chung về người Việt
Nam.
Đồng thời, mỗi người Việt Nam, trong từng hoàn cảnh khác
nhau, được giáo dục khác nhau, nên cũng yêu thương khác nhau: người sinh ra
trong một gia đình có cha mẹ đầy đủ sẽ yêu khác với người bị mất cha, mất mẹ
hoặc cha mẹ ly dị… Có khi vì không được yêu thương hay bị phản bội nên họ luôn
nghi ngờ tình yêu, luôn thù ghét người khác. Vì thế, họ rất cần ý thức về chính
mình với những đặc điểm trong cá tính của mình để thực tập bài học yêu thương
như Chúa Giêsu.
1.5. Con đường tình Giêsu
Vì
thế, hôm nay, chúng ta được mời gọi để nhìn vào Đức Giêsu, tình yêu cụ thể của
Thiên Chúa, và bước theo Người để biết yêu sao cho đúng, cho đẹp và hiệu quả vì
Đức Giêsu là Ngôi lời Thiên Chúa làm người và cũng là sự thật, sự thiện, cái đẹp
cụ thể của Thiên Chúa. Đi theo con đường sự thật và sự sống của Người, chắc chắn
ta sẽ yêu đúng, yêu đẹp và tìm được hạnh phúc vĩnh hằng và sự sống vô biên cũng
là những sự thiện tuyệt đối mà muôn loài mơ ước.
Con
đường tình yêu này tuy đơn giản nhưng khi thực hiện lại tương đối khó khăn vì
mỗi người chúng ta là một thực thể vô cùng phức tạp và nhiệm mầu. Tình yêu không
phải một thứ tình cảm mông lung xa vời nào đó mà thể hiện thành những hành động
của con người cụ thể với các hoàn cảnh và yếu tố khác nhau. Vì thế, để tránh ảo
tưởng, sau khi công bố thông điệp đầu tiên, Đức GH. Bênêđictô XVI còn giải thích
thêm để chúng ta biết yêu thương thế nào cho có hiệu quả, qua thông điệp thứ ba
“Bác ái trong Chân lý” - Caritas in Veritate – đó là tình yêu phải dựa
trên sự thật là chính Đức Giêsu và trên sự thật của mỗi người trong từng hoàn
cảnh khác nhau của đời sống.
Muốn thể hiện tình yêu thật sự cho mình cũng như cho xã
hội, chúng ta phải gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu để Người chuyển thông cho
chúng ta tình yêu Thiên Chúa và để Thánh Thần Tình yêu biến đổi tình yêu tự
nhiên của ta thành tình yêu tuyệt đối, vĩnh hằng, vô biên của Người. Yêu là
sống, không yêu là chết vì Thiên Chúa hằng sống cũng là Thiên Chúa tình yêu.
Muốn sống dồi dào, mãnh liệt, vĩnh hằng, ta phải yêu như Đức Giêsu vì Người đã
yêu cho đến chết trên thập giá và thật sự đã sống lại để chứng tỏ những giá trị
tình yêu của Người.
Hôm
nay chúng ta cùng cầu xin Chúa Cha đổ tràn tình yêu vào lòng chúng ta nhờ Thánh
Thần Ngài ban cho chúng ta, để chúng ta noi gương những bài học yêu thương của
Chúa Giêsu, từ đó chúng ta mới có thể trở thành chứng nhân tình yêu cho dân tộc
và nhân loại hôm nay.
2. Làm sao đặt tình yêu vào đúng
chỗ?
Một số người cho rằng tình
yêu có giá trị tuyệt đối, người tình là tất cả nên khi yêu họ sẵn sàng hy sinh
tất cả cho người tình của mình và khi thất bại trong tình yêu, họ tưởng rằng
mình mất tất cả đến nỗi không còn thiết sống hoặc tìm cách huỷ diệt người tình
của mình. Vì thế, chúng ta cần nhìn vào trái tim là biểu tượng của tình yêu để
đặt tình yêu vào đúng chỗ của nó.
2.1. Biểu tượng của tình
yêu
Trong đời sống thực tế,
nhiều người phân biệt tình yêu với các hoạt động khác như suy nghĩ, tưởng tượng,
sáng tạo, lao động… Họ tách biệt trái tim ra khỏi cái đầu và tay chân của họ. Họ
dành trái tim để yêu người tình, dành cái đầu để suy nghĩ tính toán, dành tay
chân để làm việc mà không hiểu rằng yêu là một hành động của con người toàn
diện. Từ đó, họ cũng tách biệt tình yêu ra khỏi nhiều lĩnh vực và mối tương
quan: họ phân biệt tình yêu khác với lòng hiếu thảo, lòng ái quốc, tình bằng
hữu, tình huynh đệ, lòng yêu nghề…
Thật ra, con người chỉ có
một trái tim duy nhất để yêu thương đối với mọi người, mọi vật quanh mình. Chỉ
một trái tim đó dùng để yêu thương người tình, cha mẹ, con cái, anh em, bạn bè,
nghề nghiệp, đất nước, thiên nhiên…Chỉ có một con người duy nhất, cụ thể diễn tả
muôn vàn hình thức tình yêu và những hình thức ấy giống như những tấm áo khác
nhau mặc bên ngoài con người trong những hoàn cảnh và đối tượng khác nhau của
cuộc sống.
Trái tim là biểu tượng tình
yêu nhưng nhiều người yêu mà không bao giờ đo lường, kiểm nghiệm, rà soát xem
trái tim mình to-bé, rộng-hẹp thế nào; nhịp đập mạnh-nhẹ, nhanh-chậm ra sao;
khoẻ mạnh bình thường hay có bị bệnh tật gì không; nếu có thì cần phải chữa trị
thế nào. Thật vậy, con người chúng ta lớn lên theo thời gian và chịu sự chi phối
của hoàn cảnh môi trường cũng như những yếu tố di truyền nên trái tim hay tình
yêu của chúng ta cũng không phải lúc nào cũng ổn định và khoẻ mạnh. Có những lúc
chúng ta cảm nhận con tim mình đang bị một tật bệnh nào đó như “con tim mù loà”
trong bài hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, hoặc con tim bất động, “chết ở
trong lòng một ít” của thi sĩ Xuân Diệu.
Vì thế, ta cần biết rõ về
trái tim của mình để có thể nhờ các nhà chuyên môn giống như bác sĩ tinh thần
khám nghiệm thường xuyên và chữa trị khi cần. Mỗi lần tự kiểm, mỗi dịp “tĩnh
tâm” cũng có thể coi như là những lần xét nghiệm con tim. Tầm soát và khám phá
sớm tật bệnh của trái tim sẽ tránh cho ta những nguy hiểm và thiệt hại lớn
lao.
2.2. Trái tim nằm ở
đâu?
Nhiều bạn trẻ nói đùa rằng:
“Vị trí quả tim con người nằm ở giữa nhưng hơi nghiêng về bên trái, nên từ bản
chất tình yêu con người cũng dễ hướng về điều sai trái!”. Thật ra, trái tim của
con người nằm ở trung tâm của cơ thể để dễ dàng bơm máu và những chất bổ dưỡng
đi khắp châu thân đem sức sống cho con người. Tình yêu con người cũng ở vị trí
trung tâm tương tự như thế vì tình yêu thực sự là động lực cho mọi hoạt động con
người. Khi thật sự yêu thương, con người dồn tất cả sức lực và tâm trí vào đối
tượng mình yêu và dám làm mọi sự cho người mình yêu dù phải hy sinh lớn lao,
thậm chí vào sinh ra tử. Hơn nữa, khi con người hiểu được tình yêu Thiên Chúa là
động lực cho mọi hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử con người và vũ trụ để
đưa tình yêu ấy vào trong mọi hoạt động của mình, họ sẽ thấy tình yêu ấy biến
đổi họ cách kỳ diệu phi thường. Nhiều nhà tư vấn tâm linh vẫn khuyên các tín hữu
nên đưa tình yêu vào trong đời sống thường ngày với lời cầu nguyện tương tự như
sau: “Lạy Chúa, con xin ăn bữa này, giặt chậu quần áo này, xem bộ phim giải
trí này, làm công việc nhỏ mọn này vì yêu Chúa”.
Dù ở vị trí trung tâm, nhưng
tình yêu không chiếm địa vị độc tôn vì không phải là tất cả con người. Trái tim
luôn ở dưới cái đầu nên tình yêu rất cần những nhận thức, suy tư đúng đắn nhờ
học hỏi, tìm hiểu những kinh nghiệm yêu thương của người khác để làm thành kinh
nghiệm của riêng mình. Nhiều người khi yêu chỉ biết lắng nghe và hành động theo
nhịp đập con tim mà không biết dùng những suy tư của lý trí nên đã không lường
trước được những khó khăn và thử thách của tình yêu. Họ đã thất bại trong cuộc
tình của mình. Trong đợt nghiên cứu vừa qua ở TP.HCM, các chuyên gia của Bộ Y tế
cho ta thấy 44% thanh niên và vị thành niên ở Việt Nam chấp nhận quan hệ tình
dục trước hôn nhân và 20% tổng số ca phá thai là ở tuổi vị thành niên (x.
Tuổi Trẻ, ngày 27/3/2013) trong tổng số 2 triệu ca phá thai hằng năm ở
Việt Nam.
Khi thất bại trong tình yêu,
nhiều người lại càng không biết suy nghĩ, tìm hiểu để hành động đúng với giá trị
con người và tuân thủ luật pháp của đất nước. Họ chiều theo những cảm xúc của
con tim để buồn chán, tiếc nuối, xót xa, thất vọng. Họ không thèm ăn uống, làm
việc đến độ sức khoẻ tinh thần cũng như thể xác bị kiệt quệ, rơi vào tình trạng
trầm cảm, tâm thần hoang tưởng, phân liệt, muốn tự tử để thoát khổ mà không suy
nghĩ để thấy rằng cái chết như thế chỉ là giải pháp trốn chạy tiêu cực làm hại
chính mình và người thân. Họ thù hận và tìm cách trả thù kẻ bạc tình bằng những
hành động xúc phạm nhân phẩm và sự sống người khác như đánh đập, đâm chém, giết
hại, tung những hình ảnh, video clip “nóng” của họ và người tình lên mạng để làm
mất danh dự, xé quần áo tình địch ngay giữa đám đông ban ngày để làm nhục người
đó, thậm chí chế tạo cả bom nổ để cùng chết chung với kẻ bạc
tình.
Tất cả những hành động thiếu
suy nghĩ ấy chỉ là do họ làm theo con tim mà không hành động, suy tư bằng cái
đầu của mình để khám phá ra nguyên tắc hành động của tình
yêu.
3. Nguyên tắc hành động của
tình yêu
Tình yêu là hành động trung
tâm của con người nên cũng phải tuân theo nguyên tắc cơ bản của mọi hành động
con người là chân-thiện-mỹ, nghĩa là phải yêu đúng, yêu tốt, yêu đẹp (x.
CĐ.Vat.II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 15,16,57).
3.1. Yêu
đúng
Trái tim con người luôn khao
khát sự thật và chỉ muốn yêu thật lòng chứ không thích sự giả dối. Tuy nhiên,
trong hoàn cảnh hiện nay, nhiều người che dấu bộ mặt thật của mình bằng những
lớp áo hoá trang hay son phấn bên ngoài khiến họ tưởng lầm về nhau. Những cuộc
tình qua internet với những hình chân dung được được sửa đổi khiến ai cũng có vẻ
là những nghệ sĩ, siêu sao. Những lời nói trau chuốt, hoa mỹ trong những lá thư
có sẵn chỉ việc nhấn nút sao chép vẫn lừa lọc rất nhiều người non dạ, yếu lòng.
Những cuộc hôn nhân môi giới cho người nước ngoài với những lời hứa hẹn về một
cuộc đổi đời, giàu sang giả dối vẫn làm cho cả chục ngàn cô gái VN rời nước ra
đi hàng năm, để rồi khóc thầm mỗi ngày vì bị lừa gạt.
Không tin tưởng nhau nên
người ta phải dùng những thiết bị nghe lén gắn vào trong điện thoại di động để
theo dõi nhau, phải viết những bức thư ký tên giả để phơi bày những cái xấu của
nhau. Họ không hiểu rằng những kiểu khám phá sự thật ấy chỉ là những hành động
xúc phạm đến con người và huỷ hoại tình yêu. Rồi vì sợ những sự thật xấu xa đó
bị phơi bày, nên nhiều người cắn răng chịu đựng những hành hạ bất công của người
tình cuồng dại. Khi yêu cách điên cuồng như thế là người ta đã không nhận ra sự
thật về chính mình và người khác, về giá trị cao cả của con người là hình ảnh
của chính Thiên Chúa để tôn trọng tự do và độc lập của nhau thay vì bắt nhau làm
nô lệ, làm đồ chơi tình dục hay phương tiện giải trí cho những căng thẳng của
cuộc đời mình.
Tình yêu của người tín hữu
chúng ta cần phải dựa trên sự thật: ta cần yêu đúng người, đúng chỗ, đúng thời.
Thật sự để tìm ra đúng người mình yêu trong một thời điểm nào đó của đời mình
chẳng phải dễ dàng, nhất là khi muốn tiến xa hơn đến cuộc hôn nhân để ăn đời ở
kiếp với nhau. Nhiều người không biết chọn ai trong số những bạn bè hay người
tình của mình vì con tim chọn yêu người này nhưng lý trí lại bảo nên lấy người
khác vì lý luận của cái đầu không phải là lý lẽ của con tim! Tuy nhiên, đối với
người tín hữu, vì Thiên Chúa là tình yêu cũng là nguồn sự khôn ngoan nên ngoài
những cố gắng tìm hiểu bằng lý trí và lắng nghe tiếng lòng của mình, người tín
hữu chúng ta cần cầu nguyện để xin Chúa soi sáng cho mình biết chọn lựa đúng
trong tình yêu.
Còn muốn yêu đúng người,
đúng chỗ, đúng thời, người tín hữu chúng ta chỉ cần nhìn vào trái tim bị lưỡi
đòng đâm thâu luôn mở ra của Chúa Giêsu trên thập giá, và hiểu rằng trái tim
mình cũng phải yêu thương cách chân thành và tích cực như thế đối với mọi người,
mọi vật quanh mình, ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ thời điểm nào. Trái tim người
tín hữu “phải rộng lớn để không sự vật nào thắng nổi, không bao giờ khép lại
trước một kẻ vô ơn, không khi nào chán nản trước một người lãnh đạm” (x. Lời
kinh của cha Gandmaison, SJ).
3.2. Yêu
tốt
Trái tim con người luôn khát
khao điều tốt cho mình cũng như cho người vì “nhân chi sơ, tính bản thiện”.
Thiên Chúa Tạo Hoá tốt lành đã đặt điều đó trong bản tính con người khi dựng nên
họ giống hình ảnh mình. Tuy nhiên, khi con người chiều theo sự cám dỗ của Satan,
cắt đứt sự hiệp thông với Thiên Chúa là nguồn sống vĩnh hằng, nguồn chân thiện
mỹ vô biên, thì con người không còn có thể sống mãi mãi và luôn đi tìm cái đúng,
cái tốt, cái đẹp được nữa. Tình yêu con người vì thế cũng bị ảnh hưởng: gắn bó
với Thiên Chúa họ tìm được chân thiện mỹ, rời xa Thiên Chúa họ đi tìm cái chết,
cái sai, cái ác, cái xấu cho mình và cho người khác.
Vì thế, cái tốt là một trong
những tiêu chuẩn để xác định tình yêu thật và đẹp của con người. Tất cả những gì
mang lại điều tốt đẹp, thiện hảo đều bắt nguồn từ tình yêu chân thật và ngược
lại tất cả những gì ác đức, xấu xa đều phát sinh từ tình yêu giả dối. Chúng ta
có thể dùng tiêu chuẩn này để kiểm chứng tình yêu của mình và điều chỉnh những
hành động sai trái của tình yêu. Thí dụ: một người bạn, người tình luôn rủ ta bỏ
nhà đi chơi, bỏ cả học hành làm việc, tiêu xài hoang phí… không phải là người
bạn tốt, người yêu tốt, và tình bằng hữu hay tình yêu của họ cũng chỉ giả dối
bên ngoài.
Trong tình yêu, điều tốt
được chia đều cho cả hai bên: người yêu và người được yêu và cả hai đều phải có
gắng để đem lại điều tốt cho nhau thì mới giữ được tình yêu chân thật. Tuy
nhiên, khi không thể mang lại điều tốt cho cả hai bên thì người chủ động yêu
phải học bài học hy sinh của Chúa Giêsu để chịu thiệt thòi về phần mình và dành
điều tốt cho người mình yêu. Bài học đó là: “Không có tình yêu nào cao quý
hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Nếu người yêu không
chịu hy sinh và chỉ muốn chọn điều tốt cho mình để bắt người được yêu phải chịu
thiệt thòi thì đó là một tình yêu ích kỷ, không chân thật.
Tình yêu tuyệt vời là tình
yêu mang lại cái tốt, có giá trị cao cả nhất cho cá nhân hay cộng đồng con
người, cho thiên nhiên hay cả vũ trụ. Điều này ta thấy thể hiện nơi những con
người có vẻ rất bình thường như người lính cứu hoả liều thân xông vào đám cháy
để cứu người, như người bạn học liều mình cứu bạn sắp chết đuối trong dòng nước
xoáy, như người lính rời gia đình ra chiến trận để bảo vệ tự do độc lập cho dân
tộc, như nhà bác học bất chấp nguy hiểm lây bệnh nghiên cứu các chương trình
sinh học để đem lại ích lợi cho cộng đồng nhân loại. Điều tốt càng cao cả, ích
lợi cho nhiều người và hành động càng gian khổ khó khăn để đạt được điều tốt ấy
thì tình yêu của người thực hiện càng lớn lao đối với tất cả những ai thụ
hưởng.
Điều này gợi ý cho chúng ta
điều tốt mà Đức Giêsu đạt được cho toàn thể nhân loại và vũ trụ khi Người chấp
nhận cái chết nhục nhã trên thập giá để hoà giải muôn loài với Chúa Cha và nhờ
đó tất cả trở thành con cái Thiên Chúa, được chia sẻ sự sống vĩnh hằng. Như thế,
tình yêu của Chúa Giêsu đã vươn đến mọi người mọi vật để trở thành mẫu mực cho
tình yêu con người. Điều tốt ấy làm cho tình yêu của Người mang nét đẹp tuyệt
vời và hướng tình yêu chúng ta về cái đẹp cơ bản và nguyên thuỷ thay vì những vẻ
đẹp nhất thời, chóng qua của hình thể bên ngoài.
3.3. Yêu
đẹp
Nói đến cái đẹp trong tình
yêu là người ta nghĩ ngay đến chuyện “đẹp đôi vừa lứa” của những đôi trai tài,
gái sắc với những tiêu chuẩn mang nặng tính khoa trương bên ngoài như trai thì
phải “đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi”, gái thì phải là “hoa khôi, hoa hậu,
xinh đẹp, có bằng bác sĩ, kỹ sư…”. Một ít người quan tâm hơn về mặt tinh thần
thì đi tìm người có lý tưởng cao, tài năng lớn, nghĩa khí mạnh để “đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu” hoặc tìm người bạn biết mình, hiểu mình trọn vẹn
để làm “tri kỷ, tri âm” như Bá Nha và Tử Kỳ hiểu được tiếng đàn của
nhau.
Yêu đẹp không phải là tạo
nên một chuyện tình đẹp với kết thúc có hậu như trong truyện cổ tích cho các
cháu thiếu nhi: có một gia đình hạnh phúc, con cháu thành đạt, ông bà an hưởng
tuổi già… Đó cũng là cơn “cám dỗ cuối cùng” của Chúa Giêsu trên thập giá mà
Nikos Kazanzakis, nhà văn Hy Lạp đã diễn tả. Nhưng Đức Giêsu đã yêu rất đẹp vì
Người chết rất trẻ, cô độc trên thập giá dù rằng Người đã cứu chữa hàng ngàn,
hàng vạn người trong ba năm giảng dạy. Câu chuyện tình của Người chẳng có hậu
theo tính toán của con người.
Yêu đẹp là yêu cái cốt lõi,
cái tinh tuý của chân thiện mỹ trong mỗi con người mình yêu thương và gắn bó mãi
mãi với những giá trị cao cả ấy dù người mình yêu có thay lòng đổi dạ, dù hoàn
cảnh môi trường bên ngoài có biến chuyển theo năm tháng. Đó là tình yêu của Đức
Giêsu: Người yêu mọi người, mọi vật “đến cùng” dù họ chỉ là những tội nhân xúc
phạm đến Người, đóng đinh giết hại Người. Yêu đẹp như Người là “đón nhận tất cả,
tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả, hy vọng tất cả” vì tin tưởng rằng Thiên Chúa
tình yêu nhìn thấu tim mình và sẽ đền bù cho mình gấp bội.
Có tin tưởng như thế thì
những người tình, người vợ, người chồng bị phản bội mới có thể tha thứ và trung
thành trong tình yêu. Từ đó ta mới hiểu rằng yêu đẹp là cần có “một tấm lòng đơn
sơ, không chất chứa những ưu phiền, một tấm lòng hào hiệp biết hy sinh, dịu dàng
để thông cảm, một tấm lòng trung thành và quảng đại để không quên một ơn, không
ghi một oán, một tấm lòng hiền hậu và khiêm tốn để yêu mà không mong được yêu
lại, biết vui vẻ quên mình để nhường chỗ cho Đức Giêsu trong một trái tim khác”
(x. Lời kinh của cha Grandmaison SJ).
Yêu đẹp là biết mở lòng mình
và lòng người hướng về những chân trời mới càng ngày càng cao hơn, rộng hơn, xa
hơn thay vì muốn giữ riêng cho mình một con người hay chiếm hữu riêng cho mình
một sự vật. Càng mở rộng tâm hồn ta càng đẹp và có thể gặp được những con người
đẹp khác đồng chí hướng với mình để làm thành một chuyện tình đẹp. Ta chỉ gặp
được những người đẹp thật sự khi ta biết yêu đẹp.
Tuy nhiên, ta cần nhớ rằng
khi ta muốn chiếm hữu người mình yêu và ghen tức với những người khác là ta
không còn yêu đẹp nữa và có nguy cơ đánh mất tình yêu. Nhiều người đã ngăn cấm
người yêu hay chồng/vợ mình tiếp xúc với người khác rồi ghen bóng ghen gió nhưng
hành động như thế là không còn yêu đẹp nữa.
Dù không người nào trên trần
thế đáp lại tình yêu đẹp của ta thì chúng ta hãy luôn nhớ rằng Thiên Chúa là
người tình tuyệt vời và muôn thuở vẫn luôn hiện diện bên ta để giúp tình yêu ta
vươn cao lên tới Ngài và chia sẻ cho ta hạnh phúc vô tận của tình
yêu.
4. Cảm nhận hạnh phúc thật
sự của tình yêu
Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Ai yêu mến Thầy
thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở
lại với người ấy” (Ga 14,23). Chúa Giêsu muốn nói đến thứ hạnh phúc cao cả
tuyệt vời dành cho những ai biết yêu thương: đó là sự hiện diện sống động của
Thiên Chúa. Chúng ta sẽ tìm hiểu 4 thái độ của con người đối với hạnh phúc đến
từ tình yêu.
4.1. Không có hạnh phúc vì tình là dây
oan
Nhiều người hiện nay cho rằng mình không thể cảm nghiệm
được hạnh phúc của yêu thương bởi vì tình chỉ là dây oan trái, không mang lại
hạnh phúc. Những người này đã thất bại ê chề trong tình yêu, có thể
do họ yêu chưa đúng, chưa tốt, chưa đẹp, nên đã tuyệt vọng không còn tin rằng
tình yêu thật sự mang lại hạnh phúc cho con người.
Họ giống như con chim bị mũi
tên bắn hụt, nên cứ nhìn thấy cành cong là hoảng sợ vì nhớ đến cánh cung nhắm
vào mình. Con chim ấy cứ bay mãi bay mãi không tìm được chỗ đậu vì cành cây nào
hầu như cũng cong cong. Họ không còn dám yêu nữa và cho rằng: “Tu là cội phúc,
tình là dây oan” như thi sĩ Nguyễn Du viết trong truyện Kiều ở câu
2.658.
Tuy nhiên, người tín hữu
Công giáo hiểu rằng ơn gọi đi tu hay ơn gọi sống đời gia đình, đều là những hồng
ân của Chúa, đều được Chúa chúc phúc và thật sự mang lại hạnh phúc cho con người
vì Thiên Chúa vừa là Đấng kêu gọi và cũng là nguồn tình yêu, nguồn hạnh phúc cho
con người. Mỗi lần thất bại trong tình trường đều có giá trị tích cực vì đó cũng
là một lần con người khám nghiệm lại trái tim của mình xem có ổn không cũng như
thay đổi cách thức diễn tả tình yêu. Vì Thiên Chúa là tình yêu nên tình yêu chân
thành không bao giờ là sợi dây oan nghiệt gây đau khổ cho con
người.
4.2. Hạnh phúc nửa vời vì
cuộc tình dang dở
Một số người lại cảm nhận
một thứ hạnh phúc nửa vời trong những cuộc tình dang dở, không đi đến cùng mà
cũng chẳng đi đến đâu! Họ giống như những con ong, con bướm bay từ hoa này đến
hoa kia, hút nhuỵ ngọt ngào qua cái vòi nhỏ bé của mình và tự bằng lòng với
những cuộc phiêu lưu tình ái. Nhà thơ Hồ Dzếnh trong bài thơ Ngập Ngừng
(x. Tập thơ Quê Ngoại, 1943) đã diễn tả tạm trạng đó như
sau:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến
nhé
Tôi sẽ trách – cố nhiên –
nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi em hãy gắng quay
về.
Tình mất vui khi đã vẹn câu
thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang
dở.
Thư viết đừng xong, thuyền
trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau…lơ lửng…với
nghìn xưa.
Tuy nhiên, bài thơ này đã
được nhiều người đọc theo ý sau đây:
Tình chỉ đẹp những khi còn
dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu
thề.
Thật ra con người với những giới hạn bởi thể xác vật
chất, không gian và thời gian thường chỉ cảm nhận được một thứ hạnh phúc nửa vời
ở trần thế này. Dù yêu nhau đến mấy thì tình bạn, tình yêu, tình vợ chồng, lòng
ái quốc, lòng yêu nghề nghiệp, khoa học… vẫn có những thiếu sót, hiểu lầm, va
chạm, thậm chí xung đột lẫn nhau trong mỗi con người cũng như trong cộng đồng xã
hội dẫn đến đau khổ, bất an, bất hạnh.
Với
đôi mắt trong sáng, tâm hồn hiền hậu và khiêm tốn, chúng ta hãy bình tĩnh nhìn
rõ sự thật này của thân phận con người để đừng bao giờ ảo tưởng về cuộc tình của
mình, thần thánh hoá tình yêu, phong người yêu làm thần tượng. Chúng ta phải đề
phòng những khi thất bại trong tình yêu để giữ được tinh thần ổn định, không suy
sụp, kiệt quệ, nhưng vẫn ăn uống điều độ, làm việc bình thường, suy nghĩ tích
cực chờ cho cơn bão tố tình yêu qua đi.
4.3. Hạnh phúc bé nhỏ, nhất thời vì tình yêu vị kỷ, tính
toán
Có một số người dù thất bại
nhưng vẫn tiếp tục yêu, nhưng sau những lần quảng đại cho đi mà chỉ nhận được
những vô ơn, bội nghĩa, họ bắt đầu nghi ngờ người yêu, không dám cho đi tất cả
và đòi phải nhận lại được “một chút gì để nhớ, để thương”. Tình yêu của họ dần
dần trở thành một cuộc trao đổi, bán buôn để luôn tìm cái lợi cho mình. Hạnh
phúc của họ pha lẫn đau khổ và chết chóc như thi sĩ Xuân Diệu (1916-1985) tả cho
chúng ta qua bài thơ Yêu của ông:
Yêu là chết ở trong lòng một
ít
Vì mấy khi yêu mà đã được
yêu
Cho rất nhiều nhưng nhận
chẳng bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ,
chẳng biết.
Thật ra người Kitô hữu chúng
ta, khi đã hiểu được Thiên Chúa là tình yêu và Đức Giêsu đòi hỏi ta phải yêu như
Người thì không phải chỉ chết một ít mà là chết toàn thân vì “Ai muốn theo tôi
phải từ bỏ chính mình” (x. Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23). Chính khi ta từ bỏ trọn
vẹn con người mình như thế, ta mới dám yêu đến độ “cho đi mà không cần tính
toán, dám chiến đấu mà không sợ thương tích, dám làm việc mà không tìm an nghỉ”
(x. Lời kinh của cha Grandmaison, SJ), mới dám yêu mà chẳng cần ai nhớ, ai
thương, ai đáp lại hay phụ bạc tình yêu của mình. Khi biết yêu đẹp như thế ta
chỉ cần nhớ đến Người Tình Tuyệt Vời của mình là chính Thiên Chúa để vượt qua và
vượt lên tất cả. Yêu như thế ta mới cảm nghiệm được hạnh phúc của ơn cứu độ mà
Đức Giêsu đã mang lại cho muôn loài khi Người nói trên thập giá: “Thế là đã hoàn
tất” (Ga 19,30).
4.4. Hạnh phúc tuyệt vời khi “yêu đến cùng như Đức
Giêsu” (x. Ga
13,1)
Cuộc sống lại của Đức Giêsu Kitô đã cho người Kitô hữu
chúng ta biết và cảm nhận rằng: tình yêu tuyệt vời chắc chắn mang lại hạnh phúc
trọn vẹn và vĩnh hằng. Đức Giêsu Phục Sinh, hiện thân của tình yêu Thiên Chúa,
đã vượt qua những giới hạn của thể xác vật chất, không gian và thời gian đã thổi
thần khí tình yêu cho các môn đệ (x. Ga 20,19-22) để giúp họ yêu thương và cảm
nhận được hạnh phúc tuyệt vời như lịch sử nhân loại đã chứng minh qua đời sống
của các vị thánh nhân cũng như của nhiều tín hữu chúng ta hiện
nay.
Hạnh phúc hoàn hảo, trọn vẹn không phải là tình trạng
người biết yêu như Chúa Giêsu sẽ được Chúa ban mọi sự như lòng người vẫn ước
mong: giàu có vô song, quyền uy vô hạn, vinh quang tuyệt đối… nhưng là việc họ
được hoà nhập vào trong sự sống kỳ diệu, phi thường của Chúa Ba Ngôi: “Cha Thầy
và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy… Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ
sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều…” (Ga 14,23.26).
Họ
vẫn sống đơn giản bên ngoài giống như Đức Giêsu xuất hiện như 1 khách bộ hành
bình thường trên đường đi Emmaus hay ở bờ biển Tibêrias, nhưng bản chất đời sống
họ đã đổi mới. Họ cảm nghiệm được sự tự do hoàn toàn đối với vật chất, tiền của,
không gian, thời gian. Họ cảm nhận được sự bình an tuyệt vời của Chúa Giêsu (x.
Ga 14,27). Họ ở trong ánh sáng (x. Kh 21,23) là chính Thiên Chúa và nhìn rõ mọi
vật quanh mình bởi vì: “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng” (1Ga
2,10).
5. Yêu trong tin tưởng và hy
vọng
Khi
chúng ta nắm vững nguyên tắc chân thiện mỹ để yêu đúng, yêu tốt, yêu đẹp như
Chúa Giêsu thì rất nhiều câu hỏi về tình yêu và được yêu sẽ được giải đáp, dù
rằng mỗi người yêu có những điều kiện, hoàn cảnh khác biệt khác. Chúng ta tạm
chia những câu hỏi và vấn đề tình yêu theo 4 loại người sau
đây:
5.1. Những người không dám yêu
-
Nhiều người sống trong ơn gọi tu trì chỉ biết “thương” mà không dám “yêu” vì họ
đã được dạy bảo “tình yêu là trái táo cấm”, ăn vào sẽ mang lại oan trái, tội
tình, huỷ diệt. Nhiều bài huấn đức của những bậc “tiền bối” đưa ra những thí dụ
cụ thể về cuộc tình oan nghiệt khiến các người thụ huấn sợ không dám yêu. Họ
được khuyến khích nên loại bỏ “tình yêu thấp hèn” trong con tim để đón nhận
“tình thương đại đồng” theo kiểu “Hồn bướm mơ tiên” trong chuyện tình Lan và
Điệp của nhà văn Khái Hưng. Tuy nhiên trái tim họ luôn khắc khoải vì muốn yêu mà
không dám.
-
Nhiều tín hữu giáo dân không dám yêu linh mục, tu sĩ mà họ thấy là những con
người thông thái, đạo hạnh, cư xử tốt đẹp, dạy điều hay lẽ phải, giúp đỡ họ
trong những lúc khó khăn, hy sinh cho người khác mà không đòi đáp trả. Họ thấy
đúng là mẫu người lý tưởng để yêu nhưng lại không dám đến gần, khiến lòng họ bứt
rứt căng thẳng: vì một đàng lý trí ngăn cản họ đừng yêu bởi những quy tắc của
cộng đồng xã hội, đàng khác con tim họ lại thôi thúc yêu
thương.
-
Có những người đã lập gia đình, có con cái và vẫn yêu chồng thương vợ. Nhưng rồi
tự nhiên thấy một người bạn cũ, một đồng nghiệp đối xử tốt với mình, hiểu mình
còn hơn người trong gia đình, giúp đỡ mình cách vô vị lợi. Người đó rất muốn
nhưng không dám yêu vì như vậy là phản bội với người phối ngẫu và lỗi nghĩa với
Chúa. Nhưng thử hỏi Chúa có ngăn cấm tình yêu đó?
Câu
trả lời cho những trường hợp trên là không ai ngăn cản được con tim đừng yêu, dù
là Chúa, vì một khi đã ban cho con người tự do để yêu thương, Chúa không bao giờ
ngăn cản con người hướng lòng về những gì gọi là chân thiện mỹ. Vậy chúng ta cứ
mạnh dạn yêu thương theo sự thôi thúc của Thiên Chúa Tình Yêu và sự soi sáng
hướng dẫn của Thánh Thần Tình Yêu, nhưng phải biết suy nghĩ bằng cái đầu để phân
biệt những hành động nào được phép diễn tả tình yêu.
5.2. Những người yêu hết mình
-
Một số bạn trẻ quan niệm rằng “yêu là cho đi tất cả, yêu là dâng hiến thân
mình”. Như thế mới là yêu trọn vẹn. Rồi họ trao thân cho nhau, quan hệ tình dục
một cách rất tự do ngoài hôn nhân, sống thử trước hôn nhân mà không lường trước
những tai hại lớn lao cho đời sống cộng đồng cũng như cá nhân (phá thai, vô
sinh, bỏ dở học hành…).
-
Một số người tình chẳng giàu có gì nhưng cũng tỏ ra yêu hết mình bằng cách chiều
người yêu mua nhà, mua xe cả tiền tỷ để minh chứng tình yêu chân thật (chứ không
phải chân giả!) của mình, bất kể hoàn cảnh khó khăn hiện tại, giống như người
không biết uống rượu, nhưng chứng tỏ ta đây yêu hết mình, nốc trọn chai rượu độ
cao, để rồi vào bệnh viện cấp cứu.
-
Có người lao động miệt mài trong lĩnh vực khoa học cũng muốn chứng tỏ tình yêu
hết mình với khoa học, bằng cách làm việc miệt mài suốt mấy ngày đêm, không ăn,
không ngủ: sau cùng kiệt quệ sức lực, chẳng làm việc được
nữa.
-
Có những người muốn chứng tỏ tình yêu hết mình đối với thể thao nên sau mỗi trận
thắng của đội nhà đã phóng xe bạt mạng trên các đường phố, hú còi hay gây tiếng
động inh ỏi không cho ai ngủ.
-
Có những người muốn chứng tỏ tình yêu hết mình đối với dân tộc, tôn giáo nên đã
sử dụng những phương tiện khủng bố phá hoại mỗi khi người khác có những hành
động xúc phạm đến dân tộc, tôn giáo của mình. Họ lật đổ, đốt cháy xe cộ đậu
ngoài đường phố, phá vỡ và cướp bóc cửa hàng, đánh bom sát hại thường
dân.
Câu
trả lời cho những trường hợp “yêu hết mình” này là chúng ta hãy khám nghiệm lại
con tim của mình và hành động theo nguyên tắc chân thiện mỹ. Trái tìm tình yêu
dù nằm ở vị trí trung tâm nhưng vẫn ở dưới cái đầu để biết suy nghĩ đúng đắn,
khôn ngoan. Tình yêu không phải là tất cả, nhưng luôn nằm trong 4 mối tương
quan: với Chúa, với tha nhân, với vạn vật và với chính mình để giữ được sự hài
hoà cần thiết trong mọi lĩnh vực và trong mọi mối tương quan của tình
yêu.
5.3. Những người không cần yêu
-
Họ là những người cho rằng mình có thể sống không cần ai, tự cung cấp cho mình
mọi thứ mà không cần yêu thương. Trái tim họ vẫn đập nhưng họ từ chối mọi thứ
tình cảm thắm thiết và có trách nhiệm với bất cứ ai và bất cứ sự việc gì. Họ cho
rằng chết là hết, chẳng có ai phán xét và thưởng phạt hành động của họ, chẳng có
sự sống vĩnh hằng và hạnh phúc vô biên. Họ chỉ muốn thụ hưởng mọi thú vui ở trần
thế theo khả năng của mình. Rất nhiều bạn trẻ và những người không tin tưởng vào
Chúa Trời đang sống theo đường hướng “ hiện sinh vô thần”
này.
Câu
trả lời cho các bạn là con người tự do được Thiên Chúa Tạo Hoá dựng nên theo
hình ảnh của Ngài và phải biết yêu những điều đúng, điều tốt, điều đẹp vì Thiên
Chúa là tình yêu và cũng là nguồn chân thiện mỹ. Họ có tự do và có trách nhiệm
về những hành động của mình. Nên khi họ từ chối tình yêu, không cần tình yêu của
bất cứ ai hay bất cứ sự vật gì thì họ tự chuốc lấy bất an và bất hạnh, đóng kín
với niềm vui và hạnh phúc. Dù họ không cần thì Thiên Chúa và muôn loài vẫn đang
yêu họ. Chúa vẫn ban cho họ sự sống, cho họ biết suy nghĩ và yêu thương dù phân
tích con người vật chất thì họ cũng chẳng có gì ngoài những nguyên tố như
Carbon, Oxy, Hydro, Nitơ, Sắt, Đồng, Chì, Kẽm. Muôn loài vẫn yêu thương và hy
sinh cho họ qua từng khối khí họ thở, từng con cá, cây rau trong bữa ăn từng
ngày, từng cánh hoa vẫn khoe sắc, toả hương cho họ. Khi họ cảm nhận được tình
yêu cụ thể đó, trái tim họ sẽ hoà nhập với muôn vật muôn loài để ca tụng Thiên
Chúa Tình Yêu và sống có trách nhiệm với tất cả.
5.4. Những người bị loại trừ
Những người này không phải bị Thiên Chúa loại trừ vì
Ngài là tình yêu và không bao giờ loại trừ ai, nhưng họ là những người bị cộng
đồng xã hội hay con người lên án vì những quan niệm khắt khe về tình
yêu.
-
Một cô gái thuộc dân tộc Chăm trót yêu một chàng trai thuộc dân tộc đối nghịch
có mối thù truyền kiếp với dòng họ mình nên bị cả cộng đồng coi là “con hủi”.
Tình yêu của họ rất trong sáng nhưng cộng đồng hai bên lại không chấp nhận, họ
trở thành kẻ mang hoạ cho dân tộc mình và bị loại trừ, kết án bởi những “già
làng”.
-
Một nữ tu sĩ Công giáo được một vị sư già Phật giáo chăm sóc sức khoẻ, châm cứu
cho hết bệnh nên đã cảm kích, yêu thương người làm ơn cho mình, nữ tu này bỏ
cộng đồng đến ở trong chùa của nhà sư nên bị cả cộng đồng kết án, loại
trừ.
-
Một linh mục dạy đạo cho một nữ giáo dân rồi hai người nảy sinh tình cảm và yêu
thương nhau. Vị linh mục bỏ nhiệm sở, đến một nơi xa lạ để lập gia đình với
người nữ ấy. Cả cộng đồng biết chuyện, lên án và loại trừ người linh mục
này.
-
Một phụ nữ có người chồng bê tha, rượu chè, cờ bạc, đánh đập vợ con nhiều lần
đến nỗi công an phải can thiệp và đề nghị chị chọn giải pháp ly dị để bảo đảm
mạng sống cho hai mẹ con nhưng chị không chịu vì luật hôn nhân Công giáo không
cho phép. Nếu không chị sẽ bị cộng đồng Công giáo loại trừ, không còn được xưng
tội, rước lễ và hiệp thông với Giáo Hội. Chị cứ phải chịu đựng người chồng trong
nỗi đau cả thể xác lẫn tâm hồn.
Câu
trả lời cho những trường hợp trên là chúng ta nên nhìn vào lòng thương xót vô bờ
của Thiên Chúa và học lại bài học tình yêu của Đức Giêsu đối với người phụ nữ
ngoại tình, Người nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ
về đi và từ nay đừng phạm tội nữa!” (x. Ga 8,2-11). Trong rất nhiều trường
hợp của những người ly dị, bị cắt đứt mối hiệp thông với Giáo Hội, chúng tôi
mong ước các linh mục tìm hiểu để nhận ra phần lỗi của người chồng/vợ của họ để
giúp những người vô tội lãnh nhận các bí tích một cách bình thường. Nhiều gia
đình bị bó buộc phải tìm đến biện pháp ly dị để bảo vệ quyền sống cho người thân
vì nếu không thì người chồng/vợ cứ mãi đánh đập, mang tiền bạc để theo đuổi các
trò đỏ đen, cá cược, cầm cố nhà cửa, đất đai để tặng cho người tình. Nhiều người
vì tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh vẫn trung thành với chồng/vợ của
mình nhưng bất đắc dĩ phải chọn giải pháp ly dị, ly thân. Vì thế, họ không thể
bị cộng đồng loại trừ như những người có tội bị kết án.
Lời kết
Đức
Giêsu mời gọi chúng ta hãy lắng nghe lời của Người, hãy giữ lệnh truyền yêu
thương của Người, hãy mở lòng ra để đón nhận Thần Khí Tình Yêu là Chúa Thánh
Thần sẽ đến với chúng ta và đổ hồng ân của Ngài trên chúng ta (Ga 14,23-29). Dù
có chịu những thử thách, đau khổ trong cuộc đời yêu thương của mình, ta vẫn cảm
nghiệm được hạnh phúc tuyệt vời của Thiên Chúa ngay trong cuộc sống trần thế này
vì “ai yêu thương thì người ấy ở trong Thiên Chúa” là nguồn tình
yêu.
Lời
kinh Tình yêu
Ôi Maria Mẹ Thiên Chúa,
Xin giữ lòng con ngây thơ, trong sạch và tinh khiết như
nước trên suối nguồn.
Xin ban cho con một tấm lòng đơn sơ, không chất chứa
những ưu phiền, một tấm lòng hào hiệp biết hy sinh, dịu dàng để thông cảm, một
tấm lòng trung thành và quảng đại, không quên một ơn, không ghi một
oán.
Xin Mẹ làm cho lòng con hiền hậu và khiêm tốn, yêu mà
không mong được yêu lại, biết vui vẻ quên mình để nhường chỗ cho Con Mẹ trong
một trái tim khác.
Xin ban cho con một tấm lòng rộng lớn để không sự vật
nào thắng nỗi, không khép lại trước một kẻ vô ơn, không chán nản trước một người
lãnh đạm, một tấm lòng khắc khoải đi tìm vinh danh Chúa Kitô, mang thương tích
vì tình yêu Chúa và vết thương chỉ được chữa lành trên trời.
Amen.
(Cha Grandmaison SJ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét