nut

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2013

Công đồng Trindentino


CÔNG ĐỒNG TRENTÔ (1545 – 1563)

 

I.          DẪN NHẬP

Công đồng Trento đã khuôn định bộ mặt của Giáo Hội  cho nhiều thế kỷ: không phải bằng một chủ trương máy móc nào đó, nhưng  bằng những khoản luật và những sắc lệnh qui định những luật lệ cho sinh hoạt thực tế và đời sống thường ngày của Giáo Hội. Trong những thập niên trước, giáo triều Roma bị giao động bởi một triều sóng mâu thuẫn về những ý tưởng canh tân và về tòa giáo hoàng. Thế mà ngay ở phiên hội khoáng đại, công đồng biểu quyết toàn diện chương trình làm việc của giáo triều. Hơn thế nữa, với sự kiên trì hiếm có, giáo hoàng coi như bổn phận đầu tiên phải làm, là buộc tuân giữ những quyết định của công đồng ngay trong nội bộ giáo triều và phải đem áp dụng trong toàn thế giới. Chính vì thế mà trong suốt nửa thế kỷ tiếp theo, giáo triều trở nên, vừa là đối tượng và vừa là chủ xướng việc cải cách. Sự chân tình dấn thân của giáo triều đã phục hồi lại cho ngôi giáo hoàng những ảnh hưởng đã dần dần mất đi từ cuối thời trung cổ. công đồng Trentô đã đưa vào Giáo hội những đường hướng đứng vững gần bốn thế kỷ, trải qua biết bao khủng hoảng và xung đột. Thế nên, công đồng được coi là đỉnh cao của phong trào cải Giáo hội.

II.               Bối cảnh Giáo hội trước Công đồng Trento.

Cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, Giáo hội đang phải trải qua một sự suy thoái trầm trọng: nhiều cuộc cải cách Giáo hội đã diễn ra với các hệ phái Tin Lành, với những nhà cải cách tại các giáo phận, các dòng tu….

Nhưng những ai có tâm huyết với Giáo hội đều hướng tầm mắt về Tòa Thánh mà đại diện là Đức Giáo hoàng, như là tác nhân cao nhất đối với công cuộc cải cách Giáo hội. Mọi người đều mong đợi một cuộc cải cách toàn diện trong Giáo hội.

Tuy nhiên, người ta nhận thấy rằng, vào đầu thế kỷ XVI này, với Đức Giulio II ( 1503-1513) là vị Giáo hoàng tham quyền chức, quá bận tâm về chính trị. Đức Leo X ( 1513-1521) là người quá ham mê nghệ thuật, xao lãng việc bổn phận, thiếu cương quyết nên đã tạo thời cơ thuận lợi cho việc phát triển của giáo thuyết Tin Lành. Đến thời Đức Adriano ( 1522-1523), là một người nhiệt tâm và thao thức việc canh tân Giáo hội, ngài chủ trương tận diệt những suy đồi trong đời sống Giáo hội, kêu gọi hàng giáo phẩm và giáo sĩ xa tránh đời sống xa hoa, không kiêm nhiệm nhiều Tổng Giám Mục để hưởng bổng lộc. Nhưng ngài không thành công vì bị chống đối, không có người cộng tác và chỉ trị vì trên ngôi Giáo hoàng trong vòng 20 tháng.

Đức Clemente VII ( 1523-1534) theo chủ trương canh tân Giáo hội. Ngài cho mời hai gương mặt nổi bật trong việc canh tân Giáo hội lúc bấy giờ là Đức Hồng Y Sadolet và Đức Giám Mục Giberti đến Roma cộng tác với ngài. Ngài thành lập ủy ban nghiên cứu việc cải cách và cho điều tra những quốc gia và những vấn đề liên quan đến công cuộc cải cách. Tuy nhiên, những đề xuất của ủy ban này không được Đức Clemente VII cho thi hành. Lý do là vì ngài thiếu cương trực và quá bận tâm đến chính trị. Vì thấy ảnh hưởng của Tây Ban Nha quá lớn mạnh. Ngài bắt tay với Francois I của Pháp chống lại Carolo V. Carolo đã đem quân trả thù bằng cách xâm chiếm Roma. Ngày 5/5/1527, quân của tướng Bombon chiếm Roma và đã diễn ra một cuộc tàn sát dã man trong bảy ngày liền, gây nên một cuộc đổ máu khủng khiếp. Nhiều thánh đường, nhiều đền đài bị phá hủy…. Đàng khác, ngài cũng quá bận tâm đến việc lo củng cố địa vị và tạo thêm thế lực cho dòng tộc mình đang có tranh chấp với một dòng tộc khác.

Tại Đức, giáo thuyết của Luther bành trướng mạnh mẽ, các lãnh chúa tại Đức đã lợi dụng Tin lành để thiết lập một liên minh chính trị ngày càng vững mạnh. Tình trạng của Giáo hội lại càng bi đát hơn nữa khi cuộc cải cách của Luther lan tràn khắp Châu Âu.

Giáo hội nhìn toàn cảnh đang rơi vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Tuy nhiên, từ bên trong, đã xuất hiện nhiều mầm sống mới với việc canh tân GH từ các giáo phận và dòng tu. Nhiều dòng tu mới đã xuất hiện trong thời kỳ này.

Tất cả mọi người đều yêu cầu có Công đồng chung, cả Luther cũng đã hai lần lên tiếng, lần thứ nhất vào năm 1518 tại hội nghị ở Ausburg, lần thứ hai khi ông nhận tông sắc Exsurge Domine hăm dọa tuyệt thông vào ngày 15.06.1520. Các tác phẩm thời đại, các cuộc hội nghị của đế quốc Đức, các dự án của những người muốn canh tân đều tha thiết triệu tập Công đồng, như là phương thuốc cuối cùng để tạo lập sự thống nhất và canh tân trong Giáo hội.

Tất cả những điều đó như mảnh đất được dọn sẳn, chuẩn bị cho công cuộc cải cách toàn thể trong Giáo hội với Công đồng Trentô.

III.            Thời kỳ chuẩn bị Công đồng.

Môi trường để chuẩn bị Công đồng tuy rất thuận tiện nhưng để thành hiện thực và đem lại kết quả tốt đẹp cho Giáo hội, Công đồng cũng đã gặp rất nhiều khó khăn và cản trở.

1. Những khó khăn:

* Từ phía giáo quyền.

Khó khăn và trở ngại đầu tiên xuất phát từ phía giáo quyền. Đức Giáo hoàng Adrianô VI có lẽ sẽ triệu tập Công đồng nếu ngài thấy Công đồng là phương tiện hữu hiệu, nhưng ngài mất đi quá sớm. Đức Giáo hoàng Clêmentê VII, ngay từ ban đầu đã chống đối Công đồng. Thêm vào nhiều tiếng nói khác cũng chống lại Roma. Người ta sợ rằng tư tưởng đại Công đồng có thể gây xáo trộn trong Giáo hội. Trong khi đó, ở Nürnberg, Luther đã kêu gọi các lãnh chúa triệu tập một “ Công đồng chung tự do, Kitô giáo ở nước Đức”. Nếu nhìn qua lời kêu gọi này, thì thực sự không có gì phải lo ngại, nhưng trong thực tế đã làm cho Roma lại càng bảo thủ hơn nữa. Dưới chữ “ tự do” phải hiểu là “ tự do khỏi Giáo hoàng”, chỉ vì theo Luther thì Đức Giáo hoàng chỉ là biểu trưng cho một đảng phái, chính vì thế không thể để Đức Giáo hoàng triệu tập và hướng dẫn Công đồng được. Chính Hoàng đế và các lãnh chúa phải đảm bảo công việc đó. “ Kitô giáo” có nghĩa là Công đồng tương lai này không những bao gồm các Giám mục mà thôi mà phải có cả giáo dân tham dự và bỏ phiếu. Thêm nữa, tất cả vấn đề trong Công đồng phải được đánh giá qua duy chỉ Thánh Kinh mà thôi. Và Công đồng phải được triệu tập trên đế quốc Đức.

* Vấn đề chính trị.

Vấn đề chính trị cũng ngăn trở không kém. Các Hoàng đế Tây Ban Nha – Pháp – Đức và Thệ Phản, đều tạo những khó khăn cho Công đồng. Vua nước Pháp không muốn có Công đồng, chỉ vì thù hận Hoàng đế Đức do bởi những cuộc chiến tranh giữa Đức Pháp. Cả những lãnh chúa Thệ Phản ở Đức cũng không đồng ý có Công đồng chỉ vì họ nhờ qua liên minh Schmalkalde đã có một thực lực mạnh.

2. Những công việc chuẩn bị.

Đức Giáo hoàng Phaolo III ( 1534-1549) lên ngôi lúc 67 tuổi, nhưng là một người cương quyết. Vừa lên ngôi, ngài đã quyết định triệu tập Công đồng chung. Nhưng ngài nhận thấy rằng, trước hết cần phải cải cách chính nội bộ của Tòa thánh. Vì thế, để chuẩn bị Công đồng, Đức Phaolô III cho tiến hành việc canh tân các Thánh bộ và làm hữu hiệu hóa guồng máy cũng như những nhân viên thừa hành của Tòa thánh. Ngài cho thiết lập 2 Thánh bộ: Bộ đặc trách hàng giáo sĩ ở Roma và Bộ thanh tra hành chánh trong Nước Tòa thánh. Nhiều Ủy ban cải cách được thành lập để lo việc nghiên cứu các giải pháp. Ngài cũng lo việc cải tổ các dòng tu. Cuối cùng ngài cho công bố bản Mục lục sách cấm (Index libroum prohibitorum), nhằm chống lại những sách báo nguy hại đến đức tin người tín hữu.

Từ năm 1535, Đức Phaolô III đã mời về Roma những Hồng y nổi danh như Sadolet, Caraffa, Pole, Contarini… và những nhà ngoại giao tài năng như Schomberg, Caracciolo….

Vào mùa xuân 1536 khi Hoàng đế Carolo V thăm viếng Roma, Đức Giáo hoàng và Hoàng đế thỏa thuận sẽ triệu tập một Công đồng chung.

Ban đầu Công đồng dự định sẽ nhóm họp tại Mantua vào ngày 23.5.1537, nhưng gặp thất bại. Lý do trước hết là vì chiến tranh xảy ra giữa Francois I và Carolo V. Đàng khác, Vua Francois I vừa mới bắt tay với các lãnh chúa Thệ Phản nên lãnh đạm với Công đồng. Nhưng Carolo cũng bất mãn vì Mantua là một địa điểm ở ngoài đế quốc Đức, như thế là ông không gây được nhiều ảnh hưởng. Ông đã đe dọa công tước ở Mantua, và công tước này phải lấy cớ là nếu để Công đồng họp tại lãnh thổ của ông thì ông phải đài thọ ít nhất là 5000 – 6000 lính canh, như thế không thể thực hiện được và tuyên bố không thể bảo đảm an ninh cho các Nghị phụ.

Vì sự từ chối trên, ngày 08.10.1537 Đức Giáo hoàng ra lệnh dời Công đồng đến Vicencia. Mặc dù Đức Giáo hoàng đặt 3 Hồng y Campeggio, Simonetta và Aleander đứng hướng dẫn Công đồng và đã đến Vicencia, nhưng chỉ có vài Giám mục người Đức đến và bỏ đi, những người Thệ Phản từ khi lập liên minh Schmalkaldie đã từ chối đến dự Công đồng ở Mantua, do đó ngày khai mạc phải dời lại một ngày khác.

Vua Ferdinando của Nước Áo đề nghị với Đức Giáo hoàng địa điểm Trentô, một tỉnh nhỏ ở vùng Tyril, dân chúng người Ý nhưng thuộc đế quốc Đức. Carolo V đồng ý và ngày 22.5.1542 Đức Giáo hoàng ban tông huấn lần đầu tiên triệu tập Công đồng ở Trentô. Hai tuần sau đó, chiến tranh lại bùng nổ giữa Carolo V và Francois I. Francois cấm các Giám mục đi dự Công đồng vì Trentô là vùng lãnh thổ của kẻ thù. Carolo V vì chiến tranh cần đến sự trợ lực của các lãnh chúa Thệ Phản nên phải bắt tay với họ và lờ đi các vấn đề tôn giáo.

Ngày 17.9.1544 Đức – Pháp ký hòa ước ở Crépy. Đức Giáo hoàng liền phái sứ thần đến gặp cả hai bên, rồi ấn định ngày khai mạc Công đồng vào ngày 18.05.1545. Nhưng khi Sứ thần tòa thánh đến chủ tọa Công đồng thì thấy số Giám mục ít quá, lại viết thư xin hoãn đến tháng 12. Suốt mùa hè năm đó, Đức Giáo hoàng sai nhiều sứ giả đi thúc giục các Giám mục và yêu cầu chính quyền không làm khó dễ Công đồng. Carolo V sau bao lần thử nghiệm chính sách hòa giải không thành công nên cũng bằng lòng giải pháp Công đồng. Đức Giáo hoàng cương quyết thực hiện việc nhóm họp của Công đồng.

Ngày 13.12.1545 Công đồng được khai mạc. Hiện diện tại Công đồng có 4 Hồng Y, 4 Tổng Giám mục, 21 Giám mục, 5 Đan viện phụ và 5 Thần học gia và Luật gia. Tuy con số quá ít, nhưng Công đồng vẫn bắt đầu và phải đợi 18 năm sau Công đồng mới được kết thúc. Công đồng được kéo dài và chia làm 3 thời kỳ từ năm 1545 đến 1563 với hai lần bị ngắt quãng.

- Giai đoạn I ( 1545 – 1549) dưới thời Đức Giáo hoàng Phaolo III ( 1543 – 1549).

- Giai đoạn II ( 1551 – 1552) dưới thời Đức Giáo hoàng Giuliô III ( 1550 – 1555).

- Giai đoạn III ( 1562 – 1563) dưới thời Đức Giáo hoàng Piô IV ( 1559 – 1563).

IV.             Công đồng Trentô ( 13.12.1545 đến 04.12.1563)

1.      Giai đoạn I ( 1545 – 1549).

Ngày 13.12.1545 với sự hiện diện của 31 vị Giám mục. Công đồng đã được khai mạc cách trọng thể tại Trentô. Ba vị Sứ thần tòa thánh hướng dẫn Công đồng là Hồng y De Monte, Pole Cervini.

Ba phiên họp đầu tiên chỉ vì số tham dự quá ít nên không quyết định được điều gì quan trọng, chỉ có ngày 22.01.1546 Công đồng đã quyết định là hai phân vụ chính yếu của Công đồng là xác định tín lý Công giáo và canh tân Giáo hội, hai vấn đề này phải được bàn thảo song song với nhau ở nghị hội.

Phiên họp thứ 4 ngày 08.04.1546 Công đồng đã quyết định một điểm căn bản cho cả Công đồng, phải công nhận Thánh Truyền có giá trị như Thánh Kinh, đồng thời Công đồng cũng xác định kinh điển. Trong phiên họp này cũng quyết định sử  dụng Thánh Kinh Vulgata tức bản dịch La ngữ của Hiêrônimô để minh xét mọi tín điều.

Phiên họp thứ 5 ngày 17.06.1546 sắc lệnh về Nguyên Tội được biểu quyết và chấp nhận. Giáo điều Nguyên Tội của Công giáo một mặt chống lại phái Pelaganer cho rằng nguyên tội đã làm bại hoại hoàn toàn bản tính của con người, đồng thời cũng chống lại lối giải thích của Thệ Phản cho rằng sau Thánh Tẩy, nguyên tội vẫn còn.

Phiên họp thứ 6 gay cấn hơn cả, người ta phải chuẩn bị tất cả là 6 tháng để học hỏi về vấn đề Công chính hóa. Tất cả có 61 buổi họp chung và 44 buổi họp riêng. Ngày 07.01 Công đồng chấp thuận. Và ngày 13.01.1547 công bố sắc lệnh và giáo thuyết Công chính hóa gồm 16 chương trình bày và 33 qui đoản kết án những lạc thuyết. Tại điểm quyết định là: Sự cộng tác của ý chí con người vào hồng ân Thiên Chúa nâng đỡ cho cả tiến trình công chính hóa. Trong sự kiện trọng đại này Công đồng nhấn mạnh đến việc có thể lập được công nghiệm ( meritum) của con người, điểm thứ hai là việc thánh hóa nội tại của con người nhờ hồng ân thánh hóa ( chống lại thuyết Simul iustus simul peccator chỉ được tuyên bố công chính hóa bên ngoài, còn bên trong vẫn còn là tội nhân). Trong phiên họp này người ta cũng bàn thảo và chấp nhận sắc lệnh về trách nhiệm về sự hiện diện tại địa sở của mình. Nếu ai vắng mặt trên địa sở của mình mà không có lý do chính đáng trong vòng sáu tháng sẽ bị phạt.

Trong phiên họp thứ 7 bắt đầu từ ngày 03.03.1547 đưa ra sắc lệnh cấm kiêm nhiệm nhiều địa sở, chỉ vì đây là một lý do làm cho các người lãnh đạo Giáo hội chểnh mảng trong vấn đề trách nhiệm hiện diện tại địa sở: Công đồng cũng đặt nền tảng cho những đòi hỏi về nhu cầu mục vụ những khoảng luật về chức vụ và về Bí tích thánh chức. Cũng trong phiên họp này, Công đồng đưa ra một sắc lệnh về Bí tích đại cương và hợp nhất về Bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức. Căn bản của sắc lệnh là giáo thuyết, các Bí tích hiện thực hồng ân qua việc hoàn tất dấu chỉ bên ngoài (Ex opere operato), chứ không duy chỉ có niềm tin vào lời hứa của Thiên Chúa.

Con số nghị phụ ngày càng gia tăng, nay đã nên được 64 Giám mục và 7 Đan viện phụ. Công việc đang được tiến hành tốt đẹp thì một tai nạn xảy ra.

Ngày 06.03.1547 sau một cơn đau ngắn, Giám mục thành Capaccio thuộc vương quốc Neapel qua đời, tiếp theo đó một số Nghị phụ cũng qua đời. Bác sĩ của Công đồng là Fracastora tuyên bố là bệnh dịch. Mười hai Nghị phụ lại vội rời bỏ Trentô, chính vì thế vào phiên họp thứ 8 vào ngày 11.03.1547 Công đồng quyết định dời về Bologne. Một thiểu số 14 Giám mục phản đối.

Vào tháng 02 năm 1548 Công đồng nhóm họp ở Bologne đại đa số là Nghị phụ ở Ý. Vào ngày 21.04 là phiên họp thứ hai, gồm có 36 Nghị phụ. Suốt mùa hè và mùa thu, Công đồng đã làm nhiều việc về giáo thuyết Bí tích, Thánh Thể, Xá Giải, Xức Dầu, Hôn Phối, Thánh Chức, người ta đã thu thập tất cả tài liệu cho việc canh tân  mục vụ Bí tích. Nhưng Công đồng không công bố một tài liệu nào của hai phiên họp trên. Tại sao vậy? Mặc dù Công đồng xác quyết là Đức Giáo hoàng có quyền rời Công đồng đến một địa điểm khác. Nhưng khi Đức Giáo hoàng thực hiện quyền của Ngài, dời Công đồng về Bologne thì Hoàng đế lại phản đối lấy lý do là cơn bệnh đã bắt đầu thối lui nên buộc các Giám mục dưới quyền của ông ( Đức – Tây Ban Nha) ở lại Trentô, nhưng trong thực tế ông cho việc dời Công đồng là một sự xúc phạm đến danh dự của ông ta, nhất là sự hiện diện của ông tại Công đồng, thử đến đây là việc không khôn ngoan mấy đối với Thệ Phản và làm một thiếu sót của Giáo hội. Carolo V đã làm khó dễ, nên vào phiên họp thứ 3 ở Bologne, Đức Giáo hoàng buộc phải tuyên bố tạm ngưng vào tháng 9.1549.

Vào ngày 10.11.1549 Đức Giáo hoàng Phaolo III qua đời. Ngài đau buồn vì người cháu là Perluigi Farnèse ngài đặt làm bá tước ở Parma và Plaisaince bị giết. Chính Carolo V đã ủng hộ và nhúng tay vào việc này.

2.                  Giai đoạn II ( 01.05.1551 – 28.04.1552)

            Ngày 08.02.1550 Đức Giáo hoàng Giulio III ( 1550 – 1555) lên ngôi. Ngài chính là Hồng y Del Monte, chủ tịch Công đồng ở giai đoạn 1, là đồng chí với Đức Giáo hoàng Phaolo III, ngài rất hăng hái trong công cuộc canh tân Giáo hội.

            Vừa lên ngôi, ngài lo điều định để tái lập Công đồng. Carolo V từ trước vẫn muốn theo đuổi chính sách hòa giải về giáo thuyết. Ngày 15.05.1548 ông ký một tạm ước Ausburg với người Thệ Phản, ông cho phép các Linh mục đã kết hôn vẫn sống với vợ mình đồng thời cho phép giáo dân chịu lễ dưới hai hình thức bánh và rượu. Tạm ước đưa ra người Công giáo bất bình vì sự nhượng bộ, người Thệ Phản bất mãn. Tình thế bắt buộc nên Carolo V cũng đồng ý cho tái lập Công đồng nhưng không sốt sắng ủng hộ. Trong khi đó Henri III ( 1547 – 15559) lên thay thế Francois I làm vua nước Pháp không ủng hộ Công đồng, cho rằng nước Pháp không có lạc thuyết nên không cần Công đồng chung, có thể lập Công đồng quốc gia để canh tân Giáo hội trong nước. Ngày 01.05.1552 ông lại ký kết với Thệ Phản Đức một hiệp ước Chămbord nhờ đó đã đem lại cho nước Pháp những phần đất Metz, Toul, Verdun và Cambrai còn ông phải tuyên hứa với đồng minh để giúp họ chống lại Hoàng đế Carolo V.

            Tình thế khó khăn như vậy, Giáo chủ vẫn lên tiếng vào ngày 01.12.1550 sự tái khai mạc Công đồng lại vào ngày 01.05.1551 tại Trentô.

Ngày 01.05.1551 khai mạc lần thứ 2 cho Công đồng Trentô. Đây cũng là phiên họp thứ 12 của Công đồng. Vì số Nghị phụ quá ít pahir ngưng lại. Bắt đầu tháng 09 thì các Giám mục của Đức mới lần lượt tái tham dự, nhất là các Tổng Giám mục của các giáo tỉnh Mainz, Trier sau đó là Kưln. Trong tháng kế tiếp thì số Giám mục của Đức lên đến 13 vị. Các vị Giám mục của Pháp theo Henri II không đến dự. Nhờ vào tài liệu đã soạn thảo ở Bologna, vào phiên họp thứ 13 vào ngày 11.10.1551 Công đồng xác định giáo thuyết về Thánh Thể: Sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu  qua lời truyền phép trong việc biến đổi bản chất. Về vấn đề ban phát Bí tích Thánh Thể dưới hai dạng thức ( Laien Kelch) Công đồng vẫn không bàn đến được thông qua một cách nhanh chóng.

            Trong phiên họp thứ 14 vào ngày 25.11.1551 Công đồng xác định trong 9 chương về giáo thuyết và 15 qui khoản về Bí tích Xá giải, Công đồng nhấn mạnh đến chỗ cần thiết của việc xưng tội tư, đặc tính thẩm phán của lời xá giải và việc đền tội. Sắc lệnh về Bí tích Bệnh nhân, với Luther thì đây chỉ là nghi thức cầu nguyện nâng đỡ bệnh nhân thôi chứ không phải là Bí tích, thì nay Công đồng nhấc mạnh đến đặc tính của Bí tích này.

            Trong phiên họp thứ 15 là phiên họp duy nhất có sự tham dự của Thệ Phản. Karl đã nắm được các lực lượng của Thệ Phản và bắt họ phải đến Công đồng . Đầu tiên là nhóm ở Brandenburg, nhóm này vào ngày 11.10 thì chấp nhận những nghị quyết của Công đồng. Nhóm Württemberg. Người đại diện cho Strassburg, sử gia Johann Slaydan, thì giữ vững lập trường của mình. Tất cả anh em Thệ Phản hợp tác với Sứ giả của Quận công Moritz Ươn Sachsen vừa đến vào ngày 09.01.1552. Trong phiên họp khoáng đại của Công đồng vào ngày 24.01, họ đòi buộc giải phóng các Nghị phụ khỏi lời nguyền tuyên thệ với Đức Giáo hoàng, buộc ngài phải tùng phục Công đồng theo lời xác quyết của Công đồng Constant, hủy bỏ tất cả những gì đã tuyên bố về tín điều mà Công đồng đã làm việc. Công đồng không thể nào chấp nhận những đề nghị của anh em Thệ Phản được. Thế là Công đồng vào ngõ bế tắc. trong lúc đó thì những tin tức bất ổn từ Đức đưa tới bắt buộc các Giám mục ở Đức phải vội vã trở về quê hương. Quận công Moritz von Sachsen, từ mùa hạ 1551 đã ký kết với Pháp một hiệp ước, đã chuẩn bị chiến tranh chống Hoàng đế. Vào cuối tháng 03 Moritz khai chiến và từ Ausburg tiến công về phía Nam. Hoàng đế bị bất ngờ tiến công phải vội vã rời bỏ InnsBruck.

            Trento bị đe dọa. Vào phiên họp thứ 16 vào ngày 2.04.1552 Đức Giáo hoàng ra lệnh tạm ngưng CÔng đồng trong một thời gian ngắn là 2 năm. Sai đó vì nản chí Đức Giáo hoàng Giulio III không tái lập nữa và ngài qua đời vào ngày 23.03.1555.

Đức Giáo hoàng Marcello II.

Hồng y Marcello Cervini phó chủ tịch Công đồng Trento lên nối ngôi Giáo hoàng Giulio III vào ngày 09.04.1555, sau 10 ngày lên ngôi ngài lâm bệnh nặng và qua đời ngày 01.05.1555.

Đức Giáo hoàng  Phaolo IV ( 23.05.1555 – 18.08.1559).

            Đức Giáo hoàng Phaolo IV, ngài là một Giáo chủ nghiêm khắc chưa từng thấy trong lịch sử. Vừa lên ngôi Giáo hoàng, ngài muốn vạch một hướng đi canh tân mới và chính Đức Giáo hoàng phải đảm nhận trách vụ đó. Có lẽ vì ngài thấy việc triệu tập Công đồng gặp nhiều khó khăn và tiến triển khá chậm. Ngài triệt để tiêu trừ lạc thuyết và các tệ nạn, không vị nể một ai, dù những người có quyền hành. Để đẩy mạnh công tác, ngài đặt Hồng y Sứ thần ở bốn nước để chuyển đạt mệnh lệnh của ngài cho các Giám mục và bắt thi hành. Vấn đề cải cách Giáo hội, ngài thu lượm được một phần kết quả, nhưng trong vấn đề chính trị ngài đã thất bại chua cay khi tìm cách chống lại ảnh hưởng của Tây Ban Nha. Nhưng lần đổ vỡ nhất cho công cuộc của ngài chính là các cháu của ngài. Theo đường lối gia đình chính trị, ngài trao chức vụ quốc vụ khanh cho cháu của ngài là  Caro Carafa. Vị Hồng y này lại bí mật làm nhiều việc mại thánh cùng với 2 người cháu khác là Palliano và Montebello. Công việc đến tai Đức Giáo hoàng, ngài cho điều tra, ngài hỏi các Hồng y và cách chức 3 người cháu đó. Ngài buồn rầu, ngã bệnh và qua đời ngày 18 08 1559.

Đức Giáo hoàng Pio IV ( 15.12.1559 – 09.12.1568).

            Sau 3 tháng chọn lựa, các Hồng y đồng ý chọn bầu một Hồng Y Gioan Angelo de Medici. Vừa lên ngôi đã tạo gia đình trị, đặt các cháu và họ hàng vào các cơ quan tòa thánh. Trên 20 cháu chắt của ngài ở tại Roma một trong số đó, một người cháu vừa lên 21 tuổi được ngài đặt làm Hồng y quốc vụ khanh. Đó là Carolo Borromeo một người quá trẻ, nhưng khôn ngoan tài trí và thánh thiện.

Rút kinh nghiệm ở đấng tiền nhiệm, Đức Giáo hoàng Pio IV lo tái lập Công đồng. Hoàn cảnh Công đồng xem ra thuận tiện. Carolo V từ trước vẫn làm cản trở Công đồng từ băn 1557 nhường ngôi cho Philippe II rút lui vào một tu viện ở Tây Ban Nha và chết năm 1558. Còn Henri III phản đối Công đồng cũng qua đời năm 1559.

            Đức Giáo hoàng Pio VI thất thế cho sứ thần đến gặp các vua mới. Tự sắc triệu tập Công đồng ngày 29.11.1560 kêu gọi họp Công đồng vào Phục Sinh 1561, nhưng thất bại, vì các vua mới tuy không chống lại nhưng tỏ ra lãnh đạm hoặc không ủng hộ.

            Không nản chí Đức Giáo hoàng cố gắng thuyết phục. Nhờ tài ngoại giao của Hồng Y Morone, Ferdinand, Hoàng đế Đức và Philippe II vua Tây Ban Nha bằng lòng ủng hộ vì hai ông hy vọng có thể dàn xếp xong xuôi vấn đề liên lạc với Tòa thánh. Còn Catherine de Medicis nhiếp chính thay cho con là Carolo XI vua nước Pháp vì thấy Thệ Phản Pháp đã trở thành một lực lượng đe dọa và hy vọng chấm dứt được chiến tranh tôn giáo, nên cũng bằng lòng để các Giám mục Pháp đến họp.

3.                  Giai đoạn 3 (18/1/1562 - 4/12/1563)

 

PHIÊN HỌP 17:

Công đồng Trento tái nhóm ngày 18.01.1562 và có thêm 7 phiên họp khoáng đại. Tham dự phiên họp thứ 17, tức là phiên họp khai mạc cho giai đoạn 3 gồm 113 vụ có chức Giám mục và như thế có vẻ một Công đồng chung hơn. Bốn Hồng y đặc sứ là Gonzaga, Seripando, Hosius và Simonetta ngồi bàn chủ tọa.

 

Ngay ở phiên họp đầu này khi bàn về trách nhiệm hiện diện tại nhiệm sở của các Giám mục thì Công đồng gặp phải cơn khủng hoảng. Những vị Tây Ban Nha và một phần Ý cho trách nhiệm này phải xem như là luật trực tiếp của Thiên Chúa (de inre divimo) như thế mới có thể tránh đi những luật trừ được, trong khi đó những người thuộc giáo triều cho rằng định nghĩa trên là một sự tấn công vào tối thượng quyền của giáo hữu. Nhưng khi đầu phiếu phe giáo triều chỉ được một số ít dù vậy Đức Gio hồng cũng đứng về phe họ và cấm không cho bàn đến vấn đề này nữa. Công đồng dậm chân tại chỗ gần hai tháng trời.

 

Vào tháng 06 mây mù tan bớt, chống đối cũng không còn nhiều, các nghị phụ lại bắt đầu làm việc trở lại. Các ngài lấy lại những công tác tín lý còn bỏ dở ở năm 1551 học hỏi trở lại

 

PHIÊN HỌP 21: Thánh thể

Vào ngày 16.7.1562 đưa ra sắc lệnh về việc Rước lễ (nói lên sự hiện diện của Chúa Kitô ở dưới một trong hai dạng thức bánh rượu, mọi phần nhỏ mọn của bánh hay rượu đều có trót Mình và Máu Thánh).

 

PHIÊN HỌP 22: Tế Phẩm và Tế Vật

Vào ngày 17.09.1562 đưa ra sắc lệnh về Thánh Lễ. Sắc lệnh nhấn mạnh ở những điểm như sau:

a.      Thánh lễ là tưởng niệm và hiện tại hóa lại cái chết hiến tế Thập tự của Chúa kitô.

b.      Chỉ vì cùng một tế phẩm và cùng một Thượng Tế là chính Chúa Kitô.

c.      Chỉ có khác cách thức dâng hiến (không đẫm máu).

Còn về việc cho Giáo dân rước máu thánh hay không thì công đồng giành quyền đó cho Giáo chủ đoán xét.

 

Về việc có cho giáo dân rước lấy Máu thánh hay không thì Công đồng giành quyền đó cho Đức Gio hồng đoán xét.

 

Vừa khi Công đồng lấy lại vấn đề trách nhiệm cư trú tại địa sở của Giám mục, Công đồng lại gặp cơn khủng hoảng và cuộc khủng hoảng này kéo dài đúng 10 tháng. Vấn đề nằm ở chỗ phải giải quyết vấn đề cơ bản là việc liên lạc giữa tối thượng quyền của Đức Gio hồng

 

Đối với quyền của các Giám mục, xác định rõ hơn chính là câu hỏi: làm thế nào hòa hợp giữa việc thiết lập chức Giám mục do chính Đấng Kitô với tối thượng quyền của Đức Gio hồng? Trong những tuần mà cơn khủng hoảng đi đến cao độ, thì cái chết len vào Công đồng. Trong một khoảng thời gian ngắn từ 02-17.3 vì quá lo âu và nặng gánh công tác lần lượt hai Hồng y đặc Sứ Chủ tịch và Phó Chủ tịch của Công đồng là Gonzaga và Scripando lần lượt qua đời. Đức Giáo Hoàng đã đặt Morone và Navagero lên thay thế. Hồng y Morone là người hướng dẫn Công đồng ra khỏi cơn khủng hoảng.

 

PHIÊN HỌP 23: Bí Tích Truyền Chức Thánh

Ngày 14.7.1563 Công đồng mới bắt đầu phiên hop thứ 23 sau 10 tháng đứt khoảng. Công Đồng hạn hẹp công tác vào giữa thuyết Thê Phản về Bí tích Truyền Chức và một sắc lệnh về việc thiết lập các chủng viện để đào tạo hàng giáo sĩ cũng được công bố trong phiên họp này.

 

Vào tháng 07. 1563 Hồng Y đặc sứ Morone cũng đưa ra một bản kiến nghị canh tân gồm 42 điểm, cả mùa hè năm đó Công đồng đã bàn thảo và sau hai phiên họp sau mới hoàn thành.

 

Bản kiến nghị qui định việc cắt đặt và phận vụ của hồng y và Giám mục:

 

*     Tổ chức công đồng địa phận (mỗi năm)

*     Công đồng miền (mỗi ba năm)

*     Phận vụ kinh lý địa phận của Giám Mục

*     Canh tân công tạo chính tòa

*     Nhiệm sở họ đạo và giảng thuyết ở họ đạo.

*     Ngoài ra còn việc canh tân các dòng tu chỉ hạn hẹp ở vài việc xác định những luật lệ như: thu nhập, tập viện, lủy cấm,…

 

PHIÊN HỌP 24: Bí Tích Hôn Nhân

Phiên họp thứ 24 vào ngày 11.11 Công đồng có đưa ra một sắc lệnh về đặc tính bí tích của hôn nhân, sắc lệnh này được sắc lệnh canh tân Tamerri bổ túc : Các hôn phối thầm kín có nghĩa là những hôn phối ký kết mà không có nhân chứng thì không những là không được phép mà còn phải ngăn cấm, từ nay chỉ có những hôn phối ký kết trước mặt vị Linh mục có thẩm quyền và ít nhất là hai nhân chứng và sau đó phải ghi vào sổ bộ, thì hôn phối đó mới thành sự.

 

PHIÊN HOP 25: Luyện Ngục, ân xá, tin kính, các thánh, di hài các Thánh và ảnh tượng

Phiên họp 25 cũng là phiên họp cuối cùng, vào ngày 3 và 4 tháng 12.1563 Công đồng cũng công bố những sắc lệnh về luyện ngục, ân xá, tôn kính các thánh… “việc kêu cầu chư thánh là tốt và giúp ích cho ơn cứu độ”, các di tích của các Ngài được mọi tín hữu tín kính cũng như những hình ảnh của Chúa Kitô và Chư thánh” không phải vì chúng tôi tin rằng trong đó có quyền lực thần linh trú ẩn”, nhưng là chỉ để trình bày những Nguyện Ảnh thôi. Về sắc lệnh ảnh tượng thì chỉ lập lại những căn bản định nghĩa ở trong Công đồng chung thứ 7.

 

Vì có một số Giám mục Tây Ban Nha chống đối kéo theo một số Giám mục khác, Hồng y Morone cũng muốn kết thúc gấp Công đồng một lẽ vì tài chánh chi phí cho Công đồng lại quá cao. Dự định là trung tuần thánh 12, nhưng ngay ngày 01.12 một lá thư của Đức Hồng y quốc vụ khanh Carolo Boromêo báo tin Đức Gio hồng đau nặng. Chính vì thế phiên họp cuối cùng, phiên họp thứ 25 chỉ họp có hai ngày, chỉ vì người ta chỉ duyệt lại và xác nhận các sắc lệnh thôi. 199 Giám mục, 7 Đan viện phụ và 7 Bề trên dòng ký tên vào bản Công đồng. Kết thúc Công đồng, Hồng y Guise, đứng đầu nhóm đối kháng lại đứng lên nói lời cuối cùng. Ngài hoan hô đương kim Gio hồng cũng như các đấng tiền nhiệm đã đem lại Công đồng, chúc tụng Hoàng đế Carolo V cũng như Ferminard, chúc tụng các Nghị phụ đã tham dự Công đồng. Hồng y đặc sứ Morone kết thúc với lời “Hãy đi bình an”.

 

Ngày 4 tháng 12 năm 1563 bế mạc Công đồng Tridentino.

 

Ngày 26.01.1564 Đức Giáo Hoàng Pio IV ban tông chiếu Benedictus Deus châu phê các sắc lệnh Công đồng và chính thức công bố.

V.                Những hệ quả của công đồng Tridentino

A.           Về Tín Lý

- Vấn đề Mạc khải, nguồn gốc của niềm tin.

 

v Thệ phản

Chỉ nhận có Thánh Kinh và giáo dân được tự do xác tín không cần đến quyền giáo huấn của Giáo hội.

 

v  Công đồng trả lời:

Niềm tin của người Công giáo đặt nền tảng trên Thánh Kinh và Thánh truyền. Giáo hội có sứ mệnh bảo vệ tính cách tinh tuyền của hai nguồn đó, Giáo dân không được tự ý giải thích Thánh, đặt cho Thánh Kinh một ý nghĩa khác với những điều Giáo hội đã ấn định về đức tin và luân lý.

 

B.            Vấn đề công chính hóa,

v Thệ phản chủ trương:

a/ Nguyên tội làm cho con người hoàn toàn bại hoại, không thể lập được một công nghiệp nào cả.

b/ Thiên Chúa đã tiền định cho một số người được cứu rỗi – Solagratia.

c/ Con đường cứu rỗi là tin vào lời hứa.

d/ Simul instus, simul peccator – Sự công chính hóa chỉ là bên ngoài, nội tại con người vẫn là tội nhân.

 

v Công đồng trả lời:

a/ Tội nguyên tổ không làm bại hoại con người hoàn toàn, con người còn tự do làm lành lánh dữ, nơi cách khác con người có thể tạo được công nghiệp.

b/ Công việc cứu rỗi đòi hỏi sự cộng tác của con người với Thiên Chúa, mặc dù nguyên tội có làm cho con người bị thương, nhưng vẫn còn ý thức để tham gia vào sự cứu rỗi.

c/ Việc chống chính là cả một cuộc biến đổi tận căn nội tại, chứ không phải chỉ phủ che bên ngoài. Nguyên nhân chính là hồng ân Thiên Chúa nhưng đòi buộc có sự cộng tác của con người.

 

C.           Vấn đề bí tích

Ø   Công đồng đưa ra giáo thuyết bí tích, người công giáo phải tin tất cả có 7 phép bí tích do Chúa Giê su thiết lập.

Ø   Công đồng xác tín bí tích là dấu hiệu chứa đựng ơn thánh và ban ơn thánh cho người lãnh nhận khi không gặp cản trở.

Ø   Bí tích thành sự khi người chủ sự hoàn thành tất cả những nghi thức do Giáo hội chỉ định (ex opera operato).

Ø   Công đồng đưa ra giáo thuyết về mỗi phép bí tích, nhưng đặc biệt là bí tích thánh thể: Chúa hiện diện thực sự trong phép thánh thể

-   Hiện diện bản thể chứ không phải năng lực như Calvin chủ trương.

-   Ngài hiện diện toàn thể cả trong bánh cũng như rượu trong mỗi phần nhỏ của hai phụ thể. cách thể hiện này chống lại chủ trương của Luther.

-   Công đồng cũng dạy: Thánh Thể không những là bí tích mà thôi nhưng còn là tế  hiến tế dâng lên Cha, điều mà tất cả thệ phản điều phủ nhận.

 

v Về kỷ luật

Ngoài giáo thuyết chân chính giáo hội cần phải cải tổ, tẩy trừ những tệ nạn và canh tân cho đúng theo Lời chúa.

 

F      Với các Giám Mục

N Công đồng đưa ra nhiều khoản chú trọng đến luật cơ sở để giảm bớt vắng mặt trong giáo phận của mình.

N Các Giám Mục phải chú ý đến nhu cầu của Giáo Dân. Hằng năm phải thăm viếng các xứ đạo trong địa phận của mình.

N  Công đồng yêu cầu các giám mục không giây mình vào chính trị, vào tiền bạc, lợi lộc và tránh lụy thuộc vào những tranh chấp gia tộc.

F      Với các Linh Mục

N Công đồng đòi hỏi các linh mục phải giữ Đức Khiết Tịnh, lo luyện tập các nhân đức cho xứng hợp với nhiệm vụ của mình.

N Công đồng đòi buộc các linh mục phải giữ luật độc thân.

N Các Ngài phải giữ luật cư sở và lo giảng dạy giáo dân, để có thể chu toàn sứ mệnh đó, Công Đồng kêu gọi các Giám Mục thành lập các chủng viện trong địa phận mình để đào tạo Linh Mục tương lai. Và đây có thể nói là công lao lớn của Công Đồng.

F      Với Giáo Dân

N Luật buộc mọi tín hữu dự lễ ngày chúa nhật và các luật khác như cấm đấu gươm, ấn định nhiều luật về Hôn Phối.

N Còn về đòi hỏi của đời sống Công Giáo, Công Đồng muốn dành việc đó cho cuốn sách Giáo Lý của Công Đồng.

N Cuối cùng, công việc quan trọng và khó khăn hơn cả là ngăn cấm các ông hoàng không đước nhúng tay vào các vấn đề của Hội Thánh.

 

Ngày 26.1.1564 Đức Giáo Hoàng Pius IV ban tông huấn “Benedictus Deus” châu phê các sắc lệnh Công Đồng và chính thức công bố trên toàn Hội Thánh.

 

 

 

 

 

 

     

 

 

1 nhận xét: