nut

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014

BÍ TÍCH


BÍ TÍCH

1.Bí tích là gì? Bí tích là dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu do Chúa Giêsu thiết lập để thông chuyển ơn thiêng liêng cho chúng ta

Bí tích là những dấu chỉ bên ngoài Chúa Giêsu đã dùng để diễn tả và thông ban ơn bên trong cho loài người.

Dấu bên ngoài thường là thể chất, cử chỉ và lời đọc. Ơn ban bên trong thì khác nhau tùy theo từng Bí tích.

*   Từ Mysterion… Đến Sacramentum.

-          Bí tích là một hạn từ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: Mysterion.

-       Mysterion vừa là ý nghĩa ẩn khuất, vừa là thực tại sau cùng (sách khôn ngoan, sách Danien). Nhưng trên hết nói về biến cố Đức Kitô.

-       Mysterion là phương tiện giúp con người đi vào tương quan với Chúa mà đón nhận sức sống Phục Sinh của Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Người.

-          Sacramentum xuất hiện từ thế kỷ II, III trong các bản dịch Kinh Thánh Latinh để chuyển dịch khái niệm Hy Lạp Mysterion.

-          Sacramentum một danh từ thuộc lĩnh vực luật pháp là lời tuyên thệ.

-          Từ cuối thế kỷ II một số tác giả, đặc biệt là Giáo phụ Tertulliano đã use từ Sacramentum để chỉ về bí tích thánh tẩy, và tertulliano còn nới rộng ý nghĩa của Sacramentum để chỉ các biến cố quan trọng của lịch sử cứu độ.

-          Khoảng thế kỷ V bất cứ một biểu tượng or nghi lễ nào cũng được gọi là Sacramentum.

-          Vào thế kỷ XII người ta thấy hạn từ Sacramentum đã use rộng rãi trong hội thánh để chỉ về 7 bí tích.

-          TÊN GỌI

o   Một là bí tích rửa tội

o   Hai là bí tích thêm sức

o   Ba là bí tích thánh thể

o   Bốn là bí tích giải tội

o   Năm là bí tích xức dầu bệnh nhân

o   Sáu là bí tích truyền chức thánh

o   Bảy là bí tích hôn phối

-          PHÂN LOẠI

ü Ba bí tích khai tâm Kito giáo: rửa tội, thêm sức, thánh thể.

ü Hai bí tích chữa lành: thống hối và xức dầu bệnh nhân

ü Hai bí tích phục vụ cộng đoàn: truyền chức thánh, hôn phối.

2.Thời giáo phụ, bí tích được quan niệm thế nào?

Xin được trình bày tư tưởng của một số giáo phụ tiểu biểu:

ü Tertulliano bí tích là dấu hiệu nói lên thực thể của lịch sử cứu độ.

ü Cyprianô  ông đã đặt bí tích trong mối tương quan với sự hiệp nhất của giáo hội, mà giáo hội cũng có thể được gọi là bí tích.

ü Cyrillô thành Giêrusalem các bí tích cho phép chúng ta thông phần vào công trình cứu độ của Đức Kitô.

ü Ambrosiô thành Milano ông đóng góp một khía cạnh mới trong bí tích đó là nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần.

ü Thánh Augustino quan niệm Bí tích là các dấu chỉ thiêng thánh của Giáo Hội, Thánh nhân còn nhấn mạnh, chính Đức Kitô là đấng ban phát các bí tích, là nơi mà các bí tích bắt nguồn.

3.Theo hiến chế về phụng vụ Sacranctum Concilium, số 59, các bí tích có mục đích gì?

ü Thánh hóa con người là động tác từ phía Thiên Chúa đến với con người,  Thiên Chúa dùng các bí tích để thông ban ân sủng và chính sức sống của Người cho chúng ta hay nói khác đi, bí tích là phương tiện Thiên Chúa dùng để thánh hóa con người.

v  Xây dựng thân thể Chúa Kitô là nơi các bí tích Giáo Hội được nuôi dưỡng.

ü Thờ phượng Thiên Chúa Là động tác từ phía con người lên Thiên Chúa, chúng ta nhận biết Chúa là Cha đã sáng tạo và gìn giữ ta cùng trời đất muôn vật, nên ta phải hết lòng thờ kính, mến yêu và phụng sự Người

4.Tại sao gọi Đức Kitô là bí tích nguyên thủy? 

Ø  Gọi Đức Kitô là bí tích nguyên thủy vì Bí Tích là dấu chỉ được dịch từ Myterion, mà Đức Kitô là một Myterion, là bản thể của Thiên Chúa, là dấu chỉ về Chúa Cha “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”, mà các Bí Tích là do Chúa kitô thiết lập nên Đức kitô là bí tích nguyên thủy.

Ø  Nói cách khác, bí tích là những dấu chỉ hữu hình qua đó ban ơn thánh, mà Chúa Kitô chính là ơn Thánh Thiên Chúa ban cho loài người, như vậy Người chính là bí tích nguyên thủy của mọi bí tích.

5.Tại sao gọi hội thánh là bí tích cứu độ phổ quát?

Theo hiến chế Lumen gentium số 48 và giáo hội triển khai ba yếu tố nhờ đó hội thánh là bí tích cứu độ phổ quát:

Ø  Hội thánh là sự hiện diện của Chúa Kitô nơi loài người. Qua hội thánh Chúa Kitô tiếp tục hoạt động để ban ơn thánh cho con người. Chính trong nghĩa này hội thánh là bí tích của Chúa Kitô.

Ø  Hội thánh là chứng nhân của Chúa Kitô nhờ hội thánh ta có thể đến với đức kitô.

Ø  Bí tích nhằm phục vụ con người nhờ đó Hội thánh phục vụ trần thế.

6.Hãy kể ra những đặc tính chung của bí tích theo sách GLHTCG (các số 1113- 1130)

Ø  Bí tích của đức kito vì được đức kitô thiết lập

Ø  Bí tích của Hội Thánh, các bí tích “thuộc về Hội Thánh” theo hai nghĩa do hội thánh và cho Hội Thánh. Do Hội Thánh vì Hội Thánh là bí tích của Chúa Kitô. Cho Hội Thánh vì các bí tích xây dựng Hội Thánh.

Ø  Bí tích đức tin vì khi lãnh nhận các Bí tích, ta phải có lòng tin và nhờ Bí tích, đức tin của ta càng được thêm mạnh mẽ và vững chắc hơn.

Ø  Bí tích của ơn cứu độ tất cả ơn cứu độ được chuyển tải nơi Đức Kitô.

Ø  Bí tích của đời sống vĩnh cửu  chúng ta được tiền dự vào đời sống vĩnh cửu ngay khi cử hành bí tích nơi trần thế. 

7.Giải thích ngắn gọn 2 công thức  “Ex opera operato” và “ Ex opera operantis” đồng thời mỗi công thức cho một ví dụ để minh họa?

§ Ex opera operato: việc cử hành phát sinh công hiệu. công hiệu của bì tích đến từ Đức Kitô qua cuộc khổ nạn và phục sinh của ngài, khi giáo hội cử hành đúng nghi thức thì sinh công hiệu công hiệu này không lệ thuộc vào tư cách của thừa tác viên mà công hiệu đến từ đức Kitô

Ví dụ: Ở Giáo Phận kia có một Lm đã hoàn tục. Có một hôm anh B muốn xin Lm ấy giải tội cho anh, nên Lm đó đã thực hiện nhiệm vụ của mình. Bí tích hòa giải mà Lm ấy ban cho anh B cũng sinh hiệu năng, do việc cử hành phát sinh công hiệu.

Ex opera operantis: do thái độ của con người phát sinh công hiệu Dĩ nhiên bí tích sinh công hiệu theo đúng công thức, tuy nhiên không chỉ đúng cử hành một cách mái móc mà thôi nhưng giáo hội còn phải chuẩn bị cho thừa tác viên và người lãnh nhận một cách sốt sắng đặc biết là á bí tích

 

Ví dụ: khi chúng ta đi dâng lễ Lm này thì cảm thấy chia trí, buồn ngủ còn Lm kia thì cảm thấy sốt sắng hơn vì qua tư cách, lời đọc ta cảm nhận được sâu sắc tình Chúa hơn.

Dĩ nhiên chúng ta cũng không ph nhn hiu năng ngoi ti ca vic c hành bí tích. Nhưng hiu năng ngoi ti lòng st sng, lòng yêu mến, không là mc đích đ nht hay đc nht ca vic thiết lp bí tích. Tuy nhiên, cn phi có s liên kết gia “ex opere operato” – hành đng ca Thiên Chúa hay ca Chúa Kitô vi “ex opere operantis là điu cn thiết. Cho nên hành đng ca tha tác viên và th nhân lãnh nhn khi c hành bí tích là cn thiết đ hiu năng ni ti có th có. Vì l đó, vic c hành bí tích phi thi hành đúng đn và th nhân không được b cn tr cho vic đón nhn ân sng. Tha tác viên phi c hành theo như ý Giáo hi và th nhân phi có ý mun lãnh nhn bí tích. Chúng ta có th nói rng bí tích như là mt cuc gp g gia con người vi Chúa Kitô. Đ cuc gp g này xy ra và hiu qu, tác đng ca Chúa Kitô phi th hin trong nghi thc bí tích (tha tác viên) và th nhân phi mun gp Chúa Kitô trong bí tích (ý hướng) và sa son b trong đ đón nhn ân sng.

 

8.Thừa tác viên cử hành và người đón nhận các bí tích phải hội đủ những điều kiện nào?

ü Thừa tác viên:

-          phải có năng quyền

-          Phải có ý hướng ngay lành

-          Phải giữ đúng nghi thức

-          Phải có lòng sùng kính và đang sống trong tình trạng ân sủng

ü Người lãnh nhận

-          Có lòng tin

-          Có ý hướng ngay lành

-          Phải có lòng yêu mến Chúa

9.Á bí tích là gì?

-          Á bí tích là những dấu chỉ, hình ảnh, cử chỉ  mô phỏng lại các bí tích và chuẩn bị tâm hồn cho người tín hữu đón nhận ân sủng của các bí tích đồng thời để thánh hóa thời khắc qua các biến cố quan trọng trong đời sống của người kitô hữu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét