nut

Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

Vai trò và vị trí của người Giáo Dân trong lịch sử

VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN TRONG LỊCH SỬ GIÁO HỘI

&
Mai Thị Huyền Trinh – Liên Dòng MTG Phaolô Nguyễn văn Bình

DẪN NHẬP
Trải qua nhiều thập kỷ, hình ảnh người giáo dân thường bị lãng quên.Vị trí và vai trò của người giáo dân không mấy được quan tâm. Nhưng với lăng kính của công đồng Vanticanô II hình ảnh người giáo dân được chú trọng hơn, không chỉ có thế với sứ điệp của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới[1] hợp tại Đại Hàn đã gọi kỷ nguyên của chúng ta đang sống là “kỷ nguyên của giáo dân” cùng với các sắc lệnh[2], các tông huấn để đề cao vai trò người giáo dân. Vậy người giáo dân là ai? mà được nhắc đến nhiều như thế trong Giáo Hội. Họ là thành phần dân chúa, là những chi thể sống động của thân mình Đức Kitô và tìm được “căn tính” mà Chúa Kitô đã dành cho những ai tin theo Ngài và sát nhập với Ngài qua bí tích Thánh Tẩy. Ðối với Giáo hội Công giáo, Công đồng Vatican II xuất hiện như một mùa xuân, sau những mùa đông giá lạnh và kéo dài nhiều thế kỷ. Sự đóng góp của Công Đồng cho Giáo Hội không phải chỉ nằm ở những bản văn, mà là đã khai mở một hướng đi mới và một cái nhìn khác về mối tương quan giữa Giáo Hội với thế giới. Để tìm hiểu rõ hơn về vị trí và vai trò của người giáo dân trong Giáo Hội dưới ánh sáng của công đồng VanticanôII, cũng như trong thế giới hôm nay nhất là về chính ơn gọi và môi trường hoạt động tông đồ của người giáo dân chúng ta lần lượt tìm hiểu:
1.      Ơn gọi và vai trò của Giáo Dân dưới ánh sáng Công Đồng Vanticano II
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội, nhất là công đồng Vanticanô I, hình ảnh người giáo dân bị lu mờ đi với cấu trúc là mô hình kim tự tháp. Về nội dung, ta thấy quá nhấn mạnh đến yếu tố pháp lí, đầy giáo sĩ tính, nhưng lại gạt bỏ vai trò của người giáo dân. Nhưng dưới lăng kính Công Đồng Vanticanô II với hiến chế tín lý về Giáo Hội và sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân đã mạnh mẽ nêu lên vấn đề giáo dân, cũng như đề cập đến ơn gọi, địa vị và trách nhiệm của người giáo dân. Như vậy, Công đồng đã tái khẳng định ý nghĩa sự hiệp thông trong niềm tin, không những bằng cách nhắc lại rằng Giáo Hội là Dân Thiên Chúa được kết hợp trong một Giao ước mới và được ký kết bằng chính máu của Ðức Kitô. Ðiều độc đáo hơn nữa, mọi thành viên của cộng đồng Dân Chúa, được thiết lập nhờ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ðức Kitô, tất cả đều tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của chính Ðức Kitô[3]. Bởi vì “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một Phép Rửa” (Ep 4,5).
Thế nên trong Giáo Hội có nhiều tác vụ khác nhau nhưng đều cùng chung một sứ mệnh. Chúa Kitô đã trao phó cho các Tông Ðồ và những người kế vị các Ngài nhiệm vụ nhân danh và lấy quyền Người mà giảng dạy, thánh hóa và cai quản. Còn phần giáo dân, vì họ tham dự thực sự vào nhiệm vụ Tư Tế, Tiên Tri và Vương Đế của Chúa Kitô, nên họ chu toàn phần việc của mình trong sứ mệnh của toàn dân. Thiên Chúa trong Giáo Hội và ở giữa trần gian. Cụ thể là người giáo dân, thi hành sứ mạng tông đồ của mình bằng những hoạt động nhằm loan báo Tin Mừng, thánh hóa nhân loại đặc biệt bằng chính đời sống Kitô hữu của mình, nhằm làm cho “Tin Mừng lan rộng khắp nơi”. Không chỉ thế, công đồng Vanticanô II khẳng định sự bình đẳng về phẩm giá giữa mọi thành phần dân Chúa “chúng ta tuy nhiều người, nhưng chỉ là một trong Đức Kitô, ai tùy phận nấy mà làm chi thể lẫn cho nhau” (Rm 12, 4-5). Đây cũng là động lực giúp người giáo dân chu toàn sứ vụ của mình. Các chi thể cũng cùng chung một phẩm giá nhờ được tái sinh trong Đức Kitô, cùng được ơn huệ của kẻ làm con Chúa, cùng được chung một ơn kêu gọi trở nên trọn lành, cùng một ơn cứu độ, cùng một niềm hi vọng, cùng một tình thương không có phân chia … xét về phẩm giá và hoạt động mà mọi tín hữu đều phải thực hiện để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, thì tất cả mọi Kitô hữu đều ngang hàng nhau[4].
Công đồng đặc biệt đề cao “tính trần thế” và sứ vụ dấn thân vào lãnh vực kinh tế, xã hội, chính trị của người giáo dân. Họ là những người tín hữu đang dấn thân vào những sinh hoạt trần thế với mọi người, như mọi người, trong tương giao nghề nghiệp, văn hóa, xã hội và tình bằng hữu. Mảnh đất nhân bản và sinh hoạt trần thế phải là môi trường riêng biệt, nơi người giáo dân thực hiện sứ mệnh làm người và lý tưởng Kitô hữu của mình. Ðây chính là môi trường Thiên Chúa gọi họ sống lý tưởng Tin Mừng và bằng chính cuộc sống chứng tá của mình để biến đổi cuộc đời từ bên trong, theo lý tưởng men trong bột. Họ phải sống giữa trần gian và dấn thân vào tất cả mọi sinh hoạt trần thế với ý hướng biến đổi và thánh hoá môi trường sống đó từ bên trong. Nói cách khác, “Giáo dân được đặc biệt mời gọi giúp Giáo hội hiện diện và hoạt động trong tất cả những nơi và tất cả hoàn cảnh mà Giáo hội chỉ có thể trở thành muối trần gian nhờ sự trung gian của giáo dân”[5].
Bên cạnh đó, người giáo dân cần phải đốt nóng ngọn lửa tình yêu bằng việc sống, kết hợp với Chúa Kitô qua Thánh Lễ, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể vì “Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu”[6], xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn quan trọng hơn hết là năng đọc Lời Chúa, sống Lời của Ngài và đó là tâm điểm của công cuộc truyền giáo. Ngoài ra người Giáo Dân cũng cần phải lắng nghe các vị Chủ Chăn trong Giáo Hội để các Ngài hướng dẫn, khích lệ động viên giúp cho công cuộc loan báo Tin Mừng được sinh hoa kết quả và nhất là thực hiện sứ mạng mà Đức Kitô đã trao “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Theo Công Đồng Vanticanô II người Giáo Dân cần phải đem hết tâm lực để phục vụ cho Giáo Hội, cho Nước Chúa. Tâm lực của người giáo dân mang nhiều sắc thái đặc biệt, tùy hoàn cảnh của mỗi đời sống: đời sống vợ chồng và đời sống gia đình, đời sống độc thân và đời sống góa bụa, theo tình trạng đau yếu, tùy sinh hoạt nghề nghiệp và sinh hoạt xã hội[7]. Như vậy mỗi người mỗi hoàn cảnh nhưng có chung một hướng tới là chu toàn ơn gọi của mình trong môi trường sống.
Tóm lại dưới lăng kính của Công Đồng Vanticanô II hình ảnh người giáo dân được biết đến nhiều hơn trong vai trò và chiếm một vị trí quan trọng trong việc tái Phúc Âm hóa.
2.      Môi trường hoạt động tông đồ của Giáo Dân

v  Môi trường Gia đình
Ngay từ khi tạo dựng Thiên Chúa đã thiết lập Bí Tích Hôn Phối để những ai sống đời hôn nhân được múc lấy từ nơi Ngài nguồn mạch ân sủng để có thể sống kế hoạch này một cách tốt lành và thánh thiện hơn. Vì là hình ảnh và được thông dự vào giao ước tình yêu của Đức Kitô và của Giáo Hội. Trong chiều hướng ấy chúng ta nhận ra được căn tính của Hôn Nhân Kitô giáo như một sự nối tiếp tình yêu của Đức Kitô trong lịch sử và căn tính của gia đình như là nơi sống hiệp thông phát sinh từ tình yêu, thì cần phải nói đến sứ mạng của vợ chồng.
Hôn nhân dẫn đưa hai người đến sự kết hợp các yếu tố tâm nhân linh để qua đó, hai người yêu nhau trao hiến cho nhau và từ đó tình yêu được lớn lên và trọn vẹn vì Đức Kitô là tâm điểm của tình yêu[8]. Không chỉ thế, hôn nhân còn là sự hiệp thông thường hằng trong cuộc sống và trong công việc đón nhận con cái khởi đầu cho cộng đồng gia đình. Chỉ nơi đó, tình yêu mới thật sự đôm bông và sự sống phát sinh từ tình yêu đôi bạn không ngừng tăng trưởng nhờ tình yêu của mọi người trong gia đình.
Gia đình không những là dấu hiệu sống động của tình yêu Đức Kitô mà còn là dấu chỉ và hình ảnh của sự hiệp thông tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Nếu đó là căn tính của gia đình thì sứ mạng của gia đình là gìn giữ, Mặc khải và thông truyền tình yêu ấy qua việc đào tạo một cộng đồng các ngôi vị. Do đó, gia đình được xây dựng và sống động nhờ tình yêu là một cộng đồng các ngôi vị của người chồng người vợ, của cha mẹ và con cái nên bổn phận đầu tiên là phải sống cách trung thành chính thực tại của sự hiệp thông và mỗi người thể hiện khả năng của mình để làm phát triển một cộng đồng đích thực của ngôi vị. Không chỉ dừng lại ở đó gia đình còn bổn phận là thông truyền sự sống, thực hiện trong suốt dòng lịch sử công trình sáng tạo của Thiên Chúa bằng việc truyền sinh. Gia đình là hình ảnh thiên chúa được tiếp tục qua các thế hệ và gìn giữ hình ảnh ấy bằng việc giáo dục nhân bản, giáo dục cho con cái đức tin mà Cha mẹ đã lãnh nhận và gia nhập vào Giáo hội như công đồng Vanticanô II đã dạy: “nền giáo dục Kitô giáo không chỉ nhằm giúp con người trưởng thành… nhưng cốt yếu là nhằm giúp những người đã rửa tội ngày càng ý thức hơn về hồng ân đức tin đã nhận lãnh trong khi họ được hướng dẫn để dần dần hiểu biết mầu nhiệm cứu rỗi”[9]. Thật vậy Cha Mẹ trước tiên rao giảng đức tin cho con cái và giáo dục đức tin của chúng bằng lời nói và gương sáng. “Họ huấn luyện cho chúng biết sống đời sống tông đồ của người tín hữu và đời sống tông đồ. Họ khôn khéo giúp cho chúng biết lựa chọn hướng đi của cuộc đời chúng và nếu biết chúng có ơn thiên triệu họ sẽ tận tình nâng đỡ chúng”[10], nhờ đó các thành viên trong gia đình được tham dự vào cuộc sống, cũng như giúp góp phần phát triển xã hội, giáo hội qua các việc tông đồ của gia đình như nhận làm con những đứa trẻ bị bỏ rơi, ân cần tiếp đón những khách lạ, cộng tác với nhà trường khuyên bảo và giúp đỡ thanh thiếu niên, giúp những người đã đính hôn chuẩn bị cho việc hôn nhân của họ được tốt đẹp, giúp dạy giáo lý, nâng đỡ những đôi vợ chồng cũng như những gia đình khi gặp khó khăn về vật chất cũng như tinh thần, lo cho người già cả, neo đơn cũng như cung cấp cho họ một số đồ dùng cần thiết[11].
Vì vậy, gia đình làm nên cái nôi và phương tiện hữu hiệu nhất để nhân bản hóa và ngôi vị hóa xã hội[12]. Chính nơi mảnh đất gia đình người giáo dân cần phải vun trồng, trao ban, chia sẽ tình yêu của Đức Kitô cho nhau, cũng như làm cho tình yêu ấy lan rộng khắp nơi, nhất là qua đời sống của gia đình sẽ gieo vãi hạt giống Lời Chúa cho hết thảy mọi người.
v  Môi trường xã hội
Môi trường hoạt động tông đồ của người giáo dân trong xã hội là làm sao đem tinh thần chúa Kitô thấm nhuần tâm trạng và phong tục, luật pháp và cơ cấu của cộng đoàn, nơi mỗi người sống (Piô XI). Đó là mỗi người giáo dân hãy làm chứng cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội ngay trong môi trường sống và hoạt động nghề nghiệp của mình. Chẳng hạn như: những bác sĩ, y tá, hộ sinh,… là những người Công Giáo họ cần sống đức tin, thể hiện cách sống qua công việc phục vụ bệnh nhân cách ân cần, bảo vệ sự sống các trẻ thơ, phục vụ với hết khả năng của mình như Đức Kitô đã cứu chữa những người đau ốm, què quặt, đui mù,…(x. Mt 15,30) vì “Con Người đến không phải để được phục vụ mà Ngài đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Không chỉ dừng lại ở đó, người giáo dân dù trong hoàn cảnh nào cũng thể hiện đúng vai trò và vị trí của mình trong xã hội như: Giáo Viên là những người thầy, người cô giúp các em hiểu biết về kiến thức và giáo dục các em phát triển về nhân bản, trở thành một con người có ích cho xã hội. Ngày nay, khoa học kỷ thuật tiến bộ các phương tiện truyền thông giúp chúng ta hiểu và biết rất nhiều về các lĩnh vực: văn hóa, y tế, chính trị,… là người công giáo, là người công dân tốt chúng ta hãy rao truyền Đức Kitô để mọi người nhận biết qua các tin tức lành mạnh, thông tin bổ ích,… ngoài ra, người giáo dân cần phải có nhiệm vụ cộng tác vào sự phát triển của nhân loại với tất cả các giá trị của nó. Hiện diện trong các lĩnh vực khoa học, sáng tạo nghệ thuật, suy tư triết học, nghiên cứu lịch sử,… người giáo dân đóng góp các kiến thức cần thiết cho các lĩnh vực để làm phát triển xã hội. Các hoạt động nghệ thuật như phim ảnh, kịch nghệ, các chương trình bổ ích,… người giáo dân cần ý thức trách nhiệm sâu sắc về việc dấn thân trong các lĩnh vực ấy.
Ngoài ra, người giáo dân còn phải ý thức cho việc đấu tranh dành lại công bình bác ái, đem lại sự thịnh vượng và hòa bình thực sự cho thế giới[13]. Người giáo dân được mời gọi dấn thân vào sinh hoạt chính trị tùy theo khả năng của họ cũng như những hoàn cảnh thời gian và không gian, với mục đích đề cao lợi ích chung trong tất cả mọi nhu cầu và nhất là trong việc thực thi công lý để phục vụ công nhân xét như những con người[14], để tái lập nền hòa bình trên thế giời, xây dựng nền giáo dục văn minh sự sống, văn minh tình thương, thực hiện đúng sứ mạng của người giáo dân nơi môi trường xã hội, dưới tác động của đức ái, đức tin, đức cậy, chứng từ của người giáo dân lan tràn nơi môi trường sống và làm việc của mình.
3.      Vai trò và vị trí của người Giáo Dân trong Giáo Hội Việt Nam
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Huấn từ về tông đồ giáo dân dịp Năm thánh 2000, đã phát biểu tại Quảng trường Thánh Phêrô: “Giờ giáo dân đã điểm. Làm một Kitô hữu, chưa bao giờ là một việc dễ dàng, ngày xưa cũng vậy mà ngày nay cũng thế. Muốn theo Chúa Kitô cần phải can đảm chọn lựa dứt khoát, thường thường là phải lội ngược dòng…”[15] Thích ứng nhiều hơn với tinh thần Công đồng Vaticanô II, người giáo dân Việt Nam hôm nay nói chung rất tích cực trong việc tham gia vào các hội đồng, hội đoàn của giáo phận, giáo xứ, thực hiện các hoạt động tông đồ với nhiều sáng kiến trong ý thức vâng phục “các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô”[16]. Về phương diện hình thức, Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện cũng đang có dáng vẻ chuyển mình khá rõ rệt. Sự trợ giúp quảng đại của kiều bào, các giáo hội chị em từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế cùng với những đóng góp chắt chiu của dân chúng trong nước, nhiều công trình xây dựng của Giáo hội đã và đang được trùng tu, tôn tạo, hoặc xây dựng mới: nhà xứ, nhà sinh hoạt, trung tâm mục vụ, chủng viện, tòa giám mục….[17] Từ một số thực tế nhận định khái quát về việc thực thi vai trò của giáo dân trong Giáo hội và cách riêng trong xã hội Việt Nam.
Chúng ta nhìn lại một chút về lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam với những người giáo dân bị tù đày, bị kỳ thị, … vì hoạt động tôn giáo của mình. Sự gắn bó của những người giáo dân này với niềm tin nơi Đức Kitô và Giáo hội của Người quả rất đáng trân trọng. Họ cũng có thể được sánh ví với những người giáo dân thuở xưa, những người được Giáo hội chính thức nhìn nhận công đức qua việc phong thánh năm 1988 với 117 Thánh Tử đạo. Trong những hoàn cảnh khó khăn khó có thể đòi hỏi gì hơn anh chị em giáo dân ngoài sự gắn bó với Đức Kitô với lòng tin Kitô giáo, với Giáo hội và với cộng đoàn, dù những hình thức giữ đạo và hành đạo có thể họ có lúc bị đánh giá nặng nề về đạo đức tình cảm. Tuy nhiên, vai trò và vị trí của người giáo dân vẫn chưa được chú trọng.
Trong thực tế, Giáo hội Việt Nam ngày hôm nay như thế nào? Khi mà xã hội với những thành tựu khoa học kĩ thuật tiến bộ, đời sống kinh tế cũng khám phát triển, dù ở nhiều nơi vẫn còn nghèo đói. Vậy vai trò và vị trí của người giáo dân trong Giáo Hội ra sao? Trước hết chúng ta phải nhìn nhận rằng, ở tại một số nơi nhiều phần việc thuộc phạm vi quản lý giáo xứ đã được giao phó cách tín nhiệm cho hội đồng giáo xứ gồm chủ yếu là những người giáo dân. Việc đào tạo các linh hoạt viên cho mục vụ giới trẻ, giáo lý viên để hợp tác với linh mục và tu sĩ lo việc dạy giáo lý cho trẻ em… đã phát triển thành phong trào. Cũng vậy ở một số nơi khác người giáo dân còn được đào tạo và giảng dạy trong việc dạy giáo lý[18], dạy các khoa học thánh[19], và trong việc sử dụng các phương tiện truyền thong xã hội[20], hay các lớp linh hoạt viên tổ chức tại các Giáo Xứ, Giáo Phận,… Ngoài ra, người giáo dân còn được tham gia trong các việc mục vụ như: Caritas ve chai, giúp đỡ những người nghèo, các hoạt động từ thiện, chăm sóc bệnh nhân HIV, AIDS,… Bên cạnh đó, người giáo dân còn được tham gia vào các buổi hợp như giáo phận TP. HCM tổ chức các buổi công nghị Giáo Phận để chỉ ra các đường hướng mới giúp phát triển Giáo Phận, người giáo dân cũng được tham dự vào các Lễ nghi như thừa tác viên sách thánh, giúp lễ,… trong các nghi thức Phụng Vụ.
Nhìn chung lại, hình ảnh, vai trò và vị trí của người giáo dân trong giáo hội Việt Nam cũng giữ một vị trí không kém quan trọng. Tuy nhiên, Giáo Hội Việt Nam một cách nào đó cũng chưa quan tâm đầy đủ đến vai trò người giáo dân trong Giáo Hội. Nhiều giáo dân vẫn chưa tự cho mình là cánh tay, một dụng cụ hỗ trợ hàng Giáo Sĩ hơn là những người chia sẽ trách nhiệm trong cùng một sứ mệnh Chúa trao. Quả thật, đây vẫn còn là một thách đố cho Giáo Hội Việt Nam khi trở nên “cộng đoàn của các cộng đoàn”, hay “nguyên lý hiệp thông” của cộng đoàn. Vì thế Giáo hội Việt Nam cần phải nổ lực hơn nữa để giúp người giáo dân ý thức trách nhiệm và nhận ra vai trò, vị trí của mình trong Giáo hội.
KẾT LUẬN
Tóm lại, Công đồng Vanticanô II đã mở ra một bước đột phá mới, là trả lại cho người giáo dân “căn tính” của họ. Qua đó người giáo dân được phục vụ trong môi trường hoạt động của mình như: gia đình, xã hội,… để họ được tôn trọng, bình đẳng và thực thi sứ mệnh, tìm kiếm nước Thiên Chúa và làm cho Nước ấy được lan rộng khắp nơi, nhất là thực hiện lời di chúc của Chúa Giêsu “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).
Bên cạnh đó, Giáo Hội Việt Nam cũng đang từng bước giúp người giáo dân nhận ra và hiểu được vai trò, vị trí của mình trong Giáo hội Hoàn Vũ cũng như Giáo Hội Địa Phương qua các sinh hoạt trần thế, trong tương giao với mọi người để họ trở nên “ánh sáng trần gian” nơi môi trường sống của mình qua các việc phục vụ, bác ái, chia sẽ,...

DANH MỤC THAM KHẢO

a&b

1.     GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio,
     22 -11 -1981.
2.     VANTICANO II - Apostolicam Actuositatem số 4, số 11.
3.     CF. Y. CONGAR, L’Eglise comme Peuple de Dieu, in Concilium 1965/1;  Lm Thiện Cẩm, Giáo hội, Cộng Đồng Dân Chúa, Tp. HCM, 1994.
4.     Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 1324.
5.     GIUSE NGUYỄN MINH SƠN. OP, Giáo trình Vị Trí và Sứ Mạng của Người Giáo Dân dưới lăng kính của Công đồng Vanticanô II
6.     GIOAN PHAOLÔ II, Vai trò người Giáo Dân trong mầu nhiệm Giáo Hội, 2001, Nxb Pauline Books and Media, Boston, 1998, do Ngọc Đính dịch, 2001, tr. 84 – 85.
7.     GIOAN PHAOLÔ II, Huấn từ về tông đồ giáo dân, 26-11-2000.
8.     HOANG H. Ta - A Training Program to Promote Collaborative Leadership in a Parish Pastoral Council of Vietnamese People (Washington, DC: The CatholicUniversityof America, 2005), 95.
9.     PHAO LÔ NGUYỄN THÁI HỢP.OP, Vai trò người Giáo Dân dưới ánh sáng Công Đồng Vanticano II, Truy cập trên trang wel- www.hdgmvietnam.org/vai-tro-cua-nguoi-giao-dan-trong-giao-hoi-v...Bản lưu

[1] Ơn gọi và sứ vụ của người Giáo Dân trong Giáo Hội và trong thế giới 20 năm sau công đồng- năm 1987
[2] Vanticano II - Apostolicam Actuositatem
[3] Cf. Y. Congar, L’Eglise comme Peuple de Dieu, in Concilium 1965/1 ; Lm Thiện Cẩm, Giáo hội, cộng đồng Dân Chúa, Tp. HCM, 1994.

[4] LG số 33
[5] FC số 33.
[6] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 1324.
[7] Vanticano II - Apostolicam Actuositatem số 4
[8] x. GS số 49                                                                                                                                                   
[9] Gravissimum educationis, 2
[10] Vanticanô II – Apostolicam Actuositatem số 11
[11] Apostolicam Actuositatem, số 11
[12] Giáo trình Vị Trí và Sứ Mạng của Người Giáo Dân dưới lăng kính của Công đồng Vanticanô II
[13] X. GS  số 72.
[14] GS số 75, Gioan Phaolô II, Vai trò người Giáo Dân trong mầu nhiệm Giáo Hội, 2001, Nxb Pauline Books and Media, Boston, 1998, do Ngọc Đính dịch, 2001, tr. 84 – 85.
[15] Gioan Phaolô II, Huấn từ về tông đồ giáo dân, 26-11-2000.
[16] X. Hoang H. Ta - A Training Program to Promote Collaborative Leadership in a Parish Pastoral Council of Vietnamese People ( Washington, DC: The CatholicUniversityof America, 2005), 95.
[17] Truy cập trên trang wel - www.hdgmvietnam.org/vai-tro-cua-nguoi-giao-dan-trong-giao-hoi-v...Bản lưu
[18] GL 774.
[19] GL 229.
[20] GL 823.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét